Cuộc chiến Afghanistan: Bài học nào từ Việt Nam?

09:22 | 20/09/2011

988 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Vụ đánh bom Tòa Đại sứ Mỹ và tổng hành dinh NATO tại Kabul ngày 13/9/2011 cho thấy, tình hình Afghanistan mỗi lúc mỗi nghiêm trọng. Bóng ma cuộc chiến Việt Nam một lần nữa lại ám ảnh nước Mỹ...

Có thể rút ra gì từ sách sử?

Từ năm 2009, sự chuyển hướng tập trung từ Iraq sang Afghanistan của Tổng thống Mỹ Barack Obama đã bắt đầu thu hút quan tâm của giới hoạch định chính sách ngoại giao Mỹ và tất nhiên cả giới quân sự. Báo chí Mỹ liên tục xoáy đề tài này, trong bối cảnh ngày càng có nhiều “quan” dâng sớ can gián “hoàng đế” Obama ngưng đổ tiếp viện quân vào chiến trường Afghanistan. Các quyển sách về (bài học) cuộc chiến Việt Nam một lần nữa lại được mang ra tầm chương trích cú.

Cuối năm 2009, Đại sứ Mỹ tại Afghanistan, nguyên Trung tướng Karl W. Eikenberry, từng bày tỏ bất đồng với yêu cầu đòi tăng thêm 40.000 quân của tướng tư lệnh Afghanistan Stanley A. McChrystal; và Eikenberry đã “đánh dây cáp” về Washington DC để nhấn mạnh mức độ rủi ro cũng như khả năng sa lầy. Với nhiều người, bài học Việt Nam là điều luôn cần thiết nhớ lại đối với cục diện Afghanistan, dù bản chất cuộc chiến hoàn toàn khác, dù kẻ thù của Mỹ bây giờ gần như không liên can những gì thuộc về chủ nghĩa, hệ tư tưởng hoặc ý thức hệ và quan trọng nhất, dù Afghanistan là một cuộc chiến bất quy ước (không phải cuộc đối đầu trực diện của hai quân đội chính quy).

Cảnh lính Mỹ tuần tra tại Helmand (Afghanistan) gợi nhớ đến những chiến dịch quân sự Mỹ tại Nam Việt Nam hồi thập niên 60

Nhiều sử gia cuộc chiến Việt Nam đang trở thành cố vấn bất đắc dĩ của giới tướng lĩnh Mỹ hiện tại. Giữa năm 2009, nhà báo kỳ cựu Stanley Karnow nhận được điện từ Kabul của người bạn cũ, Đại sứ Richard Holbrooke. Hai người gặp nhau lần đầu khi Holbrooke là viên chức ngoại giao tại Sài Gòn giữa thập niên 60 của thế kỷ trước và Karnow là phóng viên chiến trường. Bây giờ, Holbrooke là công sứ đặc biệt đặc trách Afghanistan và Pakistan. Thăm hỏi xã giao vài câu, Holbrooke bắt đầu chuyển máy cho tướng McChrystal. Không rào trước đón sau, McChrystal hỏi thẳng: “Có gì chúng ta có thể học được từ Việt Nam để áp dụng cho Afghanistan?”. Câu trả lời của Karnow cũng đơn giản và ngắn gọn: “Điều quan trọng tôi học được là chúng ta không bao giờ nên có mặt ở đó!”.

Tháng 6/2011, Tổng thống Barack Obama tuyên bố rút 10.000 lính Mỹ khỏi Afghanistan trong năm 2011 và thêm 23.000 lính vào trước hè 2012 rồi rút toàn bộ quân đội Mỹ vào năm 2014…

Với McChrystal, đó không là câu trả lời ông cần. Muốn hay không, ông cũng đã ở Afghanistan, với khoảng 68.000 lính Mỹ và 35.000 lính châu Âu. Là người ham đọc sách sử, McChrystal đã nghiền ngẫm quyển sách kinh điển về cuộc chiến Việt Nam của Karnow (Vietnam – a history) cũng như nhiều sử liệu khác. Một trong những cuốn mà ông đã đọc và đọc lại, là cuốn “A Better War” ấn hành năm 1999 của cựu Trung tá Lewis Sorley, trong đó nhận định rằng, Mỹ có thể chiến thắng cuộc chiến Việt Nam nếu Quốc hội Hoa Kỳ không cắt viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa.

A Better War đã gây chú ý với nhiều viên chức cao cấp Lầu Năm Góc và cuối cùng nằm trên bàn chỉ huy tác chiến trong Tổng hành dinh McChrystal ở Kabul, cho đến khi ông từ chức và bàn giao lại cho tướng David Petraeus (người vừa bổ nhiệm ghế Giám đốc CIA và chuyển vai trò chỉ huy cuộc chiến Afghanistan cho tướng John Allen).

Với tư cách Tổng tư lệnh tối cao quân lực Hoa Kỳ, Tổng thống Obama tất nhiên cũng tham khảo không ít sách, trong đó có quyển “Lessons in Disaster” của Gordon Goldstein, với nội dung chỉ ra rằng, Tổng thống John F. Kennedy và Tổng thống Lyndon B. Johnson không được cố vấn tốt về tình hình Việt Nam khiến cuộc chiến Việt Nam trở nên vô vọng và bất khả chiến thắng. Thay đổi lớn nhất trong quân đội Mỹ từ sau chiến tranh Việt Nam là sự hình thành Học thuyết Powell, thai nghén từ tướng Colin Powell, Tổng tham mưu trưởng quân đội Mỹ từ năm 1989 đến 1993 và Ngoại trưởng Nội các George W. Bush từ năm 2001 đến 2004.

Học thuyết Powell thật ra lấy ý tưởng từ bài diễn văn của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Caspar Weinberger phát biểu hồi năm 1984, mang nội dung rằng, quân đội Mỹ chỉ nên tham chiến khi “quyền lợi đất nước bị đe dọa, khi khả năng chiến thắng trong tầm tay và khi công chúng cũng như Quốc hội Mỹ ủng hộ”.

Một khi tham chiến, quân đội Mỹ phải dùng tổng lực để triệt hạ đối phương và rút đi càng nhanh càng tốt. Học thuyết Powell còn rút từ tất cả sai lầm của quân đội Mỹ mà Powell từng trực nghiệm trong hai lần có mặt ở chiến trường Việt Nam. Tuy nhiên, Học thuyết Powell – chỉ có thể áp dụng cho chiến tranh quy ước – đã trở nên vô dụng khi quân đội Mỹ đối mặt với “khủng bố chiến” (còn tệ hơn cả du kích chiến Việt Nam). Đối mặt “khủng bố chiến” tại Iraq, nhóm biên soạn dưới chỉ huy của tướng David Petraeus đã tung ra cẩm nang “FM 3-24” với chiến thuật tìm diệt bằng kỹ thuật tình báo kết hợp thương lượng để hàng phục thành phần Sunni, đồng thời giúp chính phủ sở tại xây dựng lực lượng an ninh – quân đội riêng. Một cách nào đó, FM 3-24 đã tỏ ra hiệu quả.

Với Afghanistan, chiến thuật rút ra từ kinh nghiệm Iraq và Việt Nam cũng áp dụng. Một phần trong chiến thuật này là chương trình ổn định từng khu vực, mang dáng dấp chiến dịch bình định của tướng Creighton W. Abrams áp dụng tại Nam Việt Nam năm 1968. Sự rõ nét nhất trong chiến thuật này là hạn chế thả bom ào ạt giúp giảm tỉ lệ thương vong thường dân, hạn chế gây thù oán với người địa phương. Cùng lúc, việc sử dụng lực lượng đặc nhiệm với kỹ thuật tình báo để tìm diệt đám chủ soái Taliban cũng được tăng cường.

Có thể thấy đó là một phiên bản khác của Chiến dịch Phượng hoàng mà quân đội Mỹ thiết kế cách đây 40 năm tại Việt Nam. Ngoài ra, theo FM 3-24, cố vấn quân sự Mỹ cũng tập trung xây dựng lực lượng an ninh – quân đội sở tại (một phiên bản nữa của công thức “Việt Nam hóa chiến tranh”). Lewis Sorley (tác giả A Better War) cho rằng, “Việt Nam hóa chiến tranh” đã mang lại hiệu quả đáng kể giúp Mỹ gần như tiệm cận chiến thắng nếu giờ chót Quốc hội Hoa Kỳ không bỏ phiếu ngưng viện trợ Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu.

Tuy nhiên, khi được hỏi rằng, liệu “Afghanistan hóa chiến tranh” có hiệu quả đối với cục diện Afghanistan không, Lewis Sorley lại trả lời rằng, chẳng ai có thể đoán được gì. Ông chỉ nói, nếu ông Obama và nhóm cố vấn đang nghiên cứu những bài học từ cuộc chiến Việt Nam, họ ít nhất phải được tiếp cận những bài học đúng.

"Khoảng hở niềm tin”

Với sự đón nhận khá bất thường cuốn “A Better War” của Lewis Sorley từ Lầu Năm Góc, không ít ý kiến tỏ ra bất bình. George Herring, một “cây đa cây đề” sử gia được kính trọng từng nghiên cứu dày công về cuộc chiến Việt Nam (tác giả cuốn “Americas Longest War”), nói rằng ông “thất vọng khi quyển sách Sorley được đánh giá cao như thế”. Thừa nhận quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa có “ăn ý” với nhau hơn vào thời điểm 1971, Herring cũng nhắc rằng Mỹ không thể bỏ qua sự quyết tâm của Hà Nội trong cùng thời gian. “Cuộc chiến (Việt Nam) không thể chiến thắng với cái giá mà chúng ta sẵn sàng trả” – Herring nói.

Thông tín viên “Newsweek” Ron Moreau từng có mặt tại chiến trường Việt Nam năm 1973 cũng nhớ lại rằng, quân đội Việt Nam Cộng hòa hoàn toàn lệ thuộc vào không lực Mỹ. Không có chiến dịch oanh tạc tiền trạm của không quân Mỹ, lính Việt Nam Cộng hòa gần như không muốn ôm súng ra trận. Hiện tiếp tục tường thuật cuộc chiến Afghanistan, Ron Moreau cho biết ông vẫn thấy hình ảnh tương tự, với sự èo uột, chết nhát trong quân đội Afghanistan và một cấu trúc quyền lực tham nhũng trong Chính phủ Kabul. Tất cả điều đó khiến Moreau nhớ lại những gì từng chứng kiến tại Sài Gòn (trước 1975) và ông rất ngờ vực Mỹ cuối cùng có thể chiến thắng cuộc chiến Afghanistan.

Sau 10 năm tham chiến, số lính Mỹ thiệt mạng tại Afghanistan tính đến trung tuần tháng 9/2011 là ít nhất 1.750 người

Trong một số sách về cuộc chiến Việt Nam (trong đó có “Triumph Forsaken: The Vietnam War 1954–1965” của sử gia Mark Moyar; hoặc “Dereliction of Duty: Lyndon Johnson, Robert McNamara, the Joint Chiefs of Staff, and the Lies that Led to Vietnam” của Thiếu tướng H. R. McMaster), các tác giả cho rằng một trong những vấn đề quan trọng không thể không bàn đến là ý kiến của giới tướng lĩnh khi cố vấn (sai lầm) cho tổng thống. Lịch sử có thể không lập lại – Mark Twain đã nhận xét như thế – và câu nói này vẫn có độ rung thời điểm hiện tại.

Trong cuộc phỏng vấn “Newsweek” vào tháng 9/2009 khi bản phân tích tuyệt mật 66 trang của ông về bãi lầy Afghanistan bị rò rỉ, McChrystal nói rằng nhiệm vụ của ông là phải báo cáo tổng thống chính xác những gì quân đội cần để chiến thắng. Khi nói như vậy, McChrystal hẳn đã đọc và thấu hiểu những gì H. R. McMaster viết trong “Dereliction of Duty”. Tuy nhiên, nói là một chuyện, thực tế là chuyện khác, khi người ta phải đứng trước nhiều chọn lựa. Công thức FM 3-24 (chống “khủng bố chiến”) của tướng David Petraeus tại Iraq – một lính Mỹ chịu trách nhiệm giám sát mỗi 50 dặm vuông (gần 129km2) – cho thấy Mỹ phải cần đến 500.000 quân mới có thể bao quát toàn bộ đất nước Afghanistan nếu mang ra áp dụng tại chiến trường này.

Ngày 14/9/2011, Quốc hội Mỹ chuẩn y ngân sách năm 2012 cho Lầu Năm Góc là 513 tỉ USD, cắt 1,6 tỉ USD trong khoản đề nghị 12,8 tỉ USD cho việc huấn luyện quân đội Afghanistan cũng như cắt 5 tỉ USD từ các lĩnh vực khác trong ngân sách Lầu Năm Góc dành cho Afghanistan. Chi phí cho mỗi lính Mỹ tại Afghanistan đã tăng lên 697.000USD trong năm 2011 so với 507.000USD năm 2009…

Afghanistan không phải là Việt Nam. ông Obama không phải Johnson. Vấn đề bây giờ là ông Obama phải tỏ ra cứng rắn hơn trong quyết định. Hơn nữa, như Barbara Elias (Giám đốc Đề án Afghanistan – Pakistan – Taliban thuộc “National Security Archive” của Đại học George Washington, Mỹ) viết trên chuyên san “Foreign Affairs”, quân đội Mỹ cũng cần phải hiểu rõ hơn kẻ thù, cần phân biệt ba nhóm Taliban – Pakistan, Taliban – Afghanistan và Al-Qaeda, cũng như yếu tố sắc tộc tôn giáo và bộ tộc địa phương manh mún cực kỳ phức tạp tại Afghanistan, để có giải pháp hành xử thích ứng với từng đối tượng…

Thượng nghị sĩ John Kerry (cựu binh chiến trường Việt Nam) nói thêm, bất luận có nhiều khác biệt giữa cuộc chiến Việt Nam và cuộc chiến Afghanistan, Tổng thống Obama cũng phải tiếp nhận bài học quan trọng nhất từ cuộc chiến Việt Nam, rằng đó là sự cần thiết phải giải thích rõ mục tiêu của Mỹ tại Afghanistan, phải chọn chiến thuật rõ ràng và thực tế để thỏa mãn các mục tiêu đó, rằng Mỹ chỉ có thể thắng nếu xây dựng một chính phủ tốt hơn và viện trợ kinh tế hiệu quả hơn, rằng cần tranh thủ đồng thuận từ Trung Quốc và Nga, cho họ thấy lợi ích kinh tế lẫn an ninh có được nếu họ giúp Mỹ ổn định tình hình…

Với Stanley Karnow, Afghanistan hay Iraq thật ra cũng chẳng khác mấy Việt Nam, xét ở góc độ lợi ích và ảnh hưởng của nó lên quyền lợi quốc gia đối với một cuộc viễn chiến. Trong bài viết trên “San Jose Mercury News”, Karnow nhắc lại: “Sự ngờ vực chính phủ ngày càng sâu lan khắp nước Mỹ ngày nay đã khởi nguồn chủ yếu từ ký ức của những trái ngược, giữa tuyên bố lạc quan về tiến trình cuộc chiến (lan truyền từ các phát ngôn viên chính phủ ở Sài Gòn và Washington) với các tổn thất tăng dần ở Đông Nam Á. Giới báo chí đã gọi hiện tượng này là “khoảng hở niềm tin” và khoảng hở càng rộng theo bước lê mỏi mệt của cuộc chiến.

Năm 1995, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara thừa nhận trong hồi ký rằng, ông và đồng nghiệp đã “sai lầm kinh khủng”. Mục đích của ông khi phá vỡ sự im lặng nhiều thập niên, như ông giải thích, là tái lập niềm tin. Mỉa mai thay, sự xưng tội của McNamara càng xác định thêm rằng niềm tin xói mòn của công chúng về các chính trị gia là không nhầm lẫn…

Trong chiến dịch tranh cử Tổng thống đầu năm 2000, Thượng nghị sĩ John McCain đã dùng một lá bài chủ lực để giành ủng hộ cử tri. Đó là “chức danh” tù binh từng bị nhốt ở Hà Nội. Có nhiều lý do để người Mỹ nhắc lại Việt Nam. Nhưng có một dòng mộ bia khắc sâu trong tâm khảm họ: “Never again!” (Không bao giờ lập lại lần nữa).

Cao Minh (Tổng hợp)