Covid-19 là cú sốc kép hiếm hoi với kinh tế toàn cầu

17:28 | 05/03/2020

314 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Covid-19 đang cùng một lúc kéo tụt cả nguồn cung và nhu cầu, khiến triển vọng kinh tế thế giới có nguy cơ u ám thêm nhiều tháng nữa.

Trung Quốc - công xưởng của thế giới - sẽ còn rất lâu nữa mới khôi phục hoàn toàn sản xuất khi nhiều nhà máy còn đóng cửa và công nhân bị cách ly. Việc này không chỉ làm giảm sản xuất hàng hóa tại đây, mà còn khiến nhiều công ty khác trên thế giới lao đao vì thiếu linh kiện cho sản phẩm hoàn chỉnh.

Cú sốc nguồn cung này ban đầu chỉ được coi là ngắn hạn, có thể dễ dàng đảo ngược khi dịch bệnh được kiểm soát. Vì thế, nhiều nhà phân tích từng dự báo tăng trưởng toàn cầu sẽ đi theo hình chữ V - lao dốc trong quý I và bật lên các tuần sau đó.

Tuy nhiên, những dự báo này đang trở nên quá lạc quan, do nhu cầu cũng đang giảm sút theo. Khi dịch bệnh lan ra ngoài Trung Quốc, người tiêu dùng khắp nơi đều ngần ngại ra ngoài mua sắm, du lịch hay ăn uống. Hậu quả là các công ty không chỉ phải cho nhân viên về quê, mà còn ngừng tuyển dụng và đầu tư. Việc này càng khiến tiêu dùng bị ảnh hưởng.

Covid-19 là cú sốc kép hiếm hoi với kinh tế toàn cầu
Công nhân tại một nhà máy tại Thượng Hải (Trung Quốc). Ảnh: Reuters

Tác động của hai cú sốc này như thế nào hiện vẫn là chủ đề tranh cãi của các nhà kinh tế học. Giáo sư Đại học Harvard Kenneth Rogoff tuần này cho biết không loại trừ nguy cơ lạm phát do thiếu hụt nguồn cung, như thập niên 70. Khi đó, các chính phủ và ngân hàng trung ương sẽ chịu nhiều áp lực hơn trong việc điều hành kinh tế.

"Một cuộc suy thoái điển hình thường liên quan đến việc nhu cầu suy giảm so với nguồn cung", David Wilcox - cựu quan chức Fed cho biết, "Trong trường hợp thông thường, giới hoạch định chính sách kinh tế biết cách lấp đầy khoảng trống nhu cầu. Nhưng trường hợp này phức tạp hơn, vì nó liên quan đến cả cung và cầu".

Việc này giải thích lý do vì sao kinh tế thế giới đang tiến dần đến năm tăng trưởng yếu nhất kể từ khủng hoảng 2009. Các mục tiêu lạm phát của giới chức hiện đều trở nên xa vời. Các công ty như Hyatt Hotels hay United Airlines Holdings đều đã rút lại dự báo lợi nhuận. Các hãng sản xuất như Samsung Electronics hay Toyota Motor đang phải vật lộn giúp nhà máy mở cửa trở lại.

Nó cũng là nguyên nhân cho đợt hạ lãi suất khẩn cấp của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) ngày 3/3. Thậm chí, dù đã hạ lãi suất mạnh tay nhất kể từ năm 2008, họ cũng không thể kéo chứng khoán Mỹ đi lên hôm đó. Chứng khoán Mỹ chỉ tăng trở lại hôm 4/3, một phần nhờ tin Hạ viện Mỹ thông qua gói chi tiêu khẩn cấp 7,8 tỷ USD để đối phó dịch bệnh.

Các ngân hàng trung ương biết rằng hạ lãi suất không thể giúp các nhà máy mở cửa trở lại hay công nhân quay lại công ty. Thậm chí trong tình hình hiện tại, nếu muốn kích cầu, họ sẽ phải phối hợp giữa hạ lãi suất và các chương trình nhằm khôi phục niềm tin và duy trì dòng chảy tín dụng. Việc này diễn ra trong bối cảnh phần lớn các ngân hàng trung ương đã hết vũ khí sau khi hạ lãi suất nhiều lần gần đây.

Thêm vào đó, bản chất của cú sốc kinh tế lần này có thể khiến chính sách tiền tệ ít hiệu quả. Dù hạ lãi suất cho vay có thể giúp các hộ gia đình có thêm động lực chi tiêu, việc này sẽ bị hạn chế nếu hàng triệu người phải ở trong nhà vì các biện pháp phong tỏa, cách ly, hoặc chỉ đơn giản là họ muốn ở nhà vì sợ lây bệnh. Việc này có thể giải thích lý do vì sao Ngân hàng trung ương Trung Quốc áp dụng các chính sách tín dụng tập trung, hơn là hạ lãi suất quy mô lớn để đối phó dịch bệnh.

Sau động thái tiên phong của Fed, các chính phủ giờ càng chịu sức ép phải hành động nhiều hơn nữa. "Chúng ta chỉ mới bước vào giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng", cựu Bộ trưởng Tài chính Mỹ Lawrence Summers cho biết.

Với các nhà hoạch định chính sách, nguồn cung là vấn đề khó giải quyết hơn. Vì họ sẽ phải nhanh chóng khôi phục sản xuất, giao thông, mạng lưới thông tin hoặc tài nguyên đầu vào.

Để làm được điều đó, chính sách tài khóa mới là phù hợp. Việc ngân hàng trung ương nới lỏng tiền tệ chỉ là phụ trợ. Mỹ, Nhật Bản, Italy và Hàn Quốc đều đã tung gói cứu trợ để đối phó dịch bệnh. Dù vậy, phần lớn số tiền này chảy vào các công ty y tế và hoạt động ngăn ngừa, cứu chữa, chứ không phải trải rộng cả nền kinh tế.

Tuần trước, chứng khoán toàn cầu lao dốc mạnh nhất kể từ khủng hoảng tài chính. Chỉ số MSCI All Country World dù bật tăng 2,7% hôm qua, hiện vẫn thấp hơn 8% so với đỉnh cách đây một tháng.

Việc các chính phủ tăng chi tiêu có thể không kiềm chế được đà lây lan của virus. Tuy nhiên, nó có thể giúp chặn lại nhu cầu tiêu dùng đang lao dốc không phanh. Chetan Ahya - nhà kinh tế tại Morgan Stanley dự báo thâm hụt tài khóa của Trung Quốc và 4 nước phát triển lớn sẽ tăng ít nhất lên 4,7% GDP năm nay - cao nhất kể từ năm 2011.

Theo VNE

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC HCM 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC ĐN 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 ▲600K 76,100 ▲500K
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 ▲600K 76,000 ▲500K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
Cập nhật: 19/04/2024 13:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.000 ▼100K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 19/04/2024 13:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,485 ▲50K 7,700 ▲50K
Trang sức 99.9 7,475 ▲50K 7,690 ▲50K
NL 99.99 7,480 ▲50K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,460 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,550 ▲50K 7,730 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,550 ▲50K 7,730 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,550 ▲50K 7,730 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 8,200 ▼10K 8,380 ▼20K
Miếng SJC Nghệ An 8,200 ▼10K 8,380 ▼20K
Miếng SJC Hà Nội 8,200 ▼10K 8,380 ▼20K
Cập nhật: 19/04/2024 13:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,800 ▼300K 83,800 ▼300K
SJC 5c 81,800 ▼300K 83,820 ▼300K
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,800 ▼300K 83,830 ▼300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 75,000 ▲300K 76,900 ▲300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 75,000 ▲300K 77,000 ▲300K
Nữ Trang 99.99% 74,900 ▲300K 76,200 ▲300K
Nữ Trang 99% 73,446 ▲297K 75,446 ▲297K
Nữ Trang 68% 49,471 ▲204K 51,971 ▲204K
Nữ Trang 41.7% 29,429 ▲126K 31,929 ▲126K
Cập nhật: 19/04/2024 13:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 19/04/2024 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,040 16,140 16,590
CAD 18,227 18,327 18,877
CHF 27,564 27,669 28,469
CNY - 3,476 3,586
DKK - 3,578 3,708
EUR #26,600 26,635 27,895
GBP 31,220 31,270 32,230
HKD 3,176 3,191 3,326
JPY 161.53 161.53 169.48
KRW 16.63 17.43 20.23
LAK - 0.9 1.26
NOK - 2,260 2,340
NZD 14,721 14,771 15,288
SEK - 2,265 2,375
SGD 18,226 18,326 19,056
THB 637.12 681.46 705.12
USD #25,185 25,185 25,473
Cập nhật: 19/04/2024 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 19/04/2024 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25230 25280 25470
AUD 16028 16078 16483
CAD 18247 18297 18699
CHF 27852 27902 28314
CNY 0 3477.8 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26783 26833 27335
GBP 31358 31408 31861
HKD 0 3115 0
JPY 163.06 163.56 179.85
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14733 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18493 18493 18844
THB 0 649.6 0
TWD 0 777 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 19/04/2024 13:00