Chuyên gia WB: Việt Nam có khả năng chống chịu "ngoài dự kiến"

06:19 | 14/08/2020

186 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Với xuất khẩu đứng vững thể hiện khả năng chống chịu ngoài mức dự kiến trong bối cảnh quốc tế đình trệ, WB cho rằng, quá trình phục hồi kinh tế của Việt Nam vẫn tiếp diễn.

Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố báo cáo cập nhật kinh tế vĩ mô Việt Nam trong tháng 8/2020, cho rằng, trong thời gian tới, sự trở lại của Covid-19 với các ca lây nhiễm cộng đồng cùng với các biện pháp hạn chế mới, nhất là ở Đà Nẵng, chắc chắn sẽ tác động đến quá trình khôi phục kinh tế.

Tuy vậy, tác động tiêu cực của dịch phần nào được giảm nhẹ do Chính phủ đã và đang nỗ lực đẩy nhanh triển khai chương trình đầu tư công, nhất là ở các địa phương.

Đến ngày 13/8, có 883 ca nhiễm và 18 ca tử vong được ghi nhận trong nước, chủ yếu do đợt sóng lây nhiễm cộng đồng mới đây ở khu vực Đà Nẵng.

Việt Nam báo cáo ca nhiễm mới đầu tiên vào ngày 28/7 sau gần 100 ngày không có lây nhiễm cộng đồng. Kể từ thời điểm đó, 286 ca nhiễm mới đã được đưa vào báo cáo, chủ yếu ở khu vực Đà Nẵng và các địa phương lân cận, nhưng cũng cả ở TPHCM và Hà Nội. Các biện phép xét nhiệm và truy vết được tăng cường.

Chuyên gia WB cho rằng, quá trình phục hồi kinh tế trong nước của Việt Nam vẫn tiếp diễn cho dù chưa thể quay lại nhịp độ như thời trước khủng hoảng.

Chuyên gia WB: Việt Nam có khả năng chống chịu
(Ảnh: Cảng Hải Phòng)

Khả năng chống chịu ở mức độ ngoài dự kiến

Người dân trải qua ba tuần cách ly gắt gao trong tháng 4, sau đó, Chính phủ đã từng bước nới lỏng những hạn chế về đi lại và giãn cách xã hội. Cho đến khi Covid-19 lại bùng phát lại ở Đà Nẵng vào cuối tháng 7 thì Chính phủ lại phải ban hành lại những biện pháp hạn chế đi lại chặt chẽ ở Đà Nẵng, đồng thời nâng cấp độ giãn cách xã hội ở các thành phố khác. Chỉ số chặt chẽ của quốc gia tăng lên còn số chuyến bay nội địa giảm mạnh kể từ đầu tháng 8.

Trước khi dịch bùng phát lại, kinh tế trong nước vẫn phục hồi với chỉ số sản xuất công nghiệp (IPI) tăng 2,5% (so cùng kỳ năm trước) trong tháng 7. Tốc độ tăng này thấp hơn một chút so với tháng 5 và tháng 6.

Tương tự, doanh số bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiếp tục phục hồi với tốc độ tăng 4,6% (so cùng kỳ năm trước). Tốc độ tăng trưởng chế tạo chế biến và doanh số bán lẻ đều thấp hơn so với tháng 7/2019. “Điều đó cho thấy nền kinh tế chưa thực sự phục hồi lại ở mức như trước khi có khủng hoảng” - theo WB.

Thương mại hàng hóa nhìn chung tiếp tục hồi phục, chủ yếu nhờ các doanh nghiệp trong nước chứ không phải doanh nghiệp xuất khẩu của nước ngoài.

Trong tháng 7, Việt Nam có khả năng duy trì thặng dư thương mại hàng hóa ở mức 1,6 tỷ USD, góp phần nâng thặng dư trong 7 tháng đầu năm 2020 lên đến 9,4 tỷ USD so với 3,3 tỷ USD của cùng kỳ năm 2019. Tổng kim ngạch xuất khẩu giảm 1,4% so với tháng 6/2020 nhưng vẫn tương đương với tháng 7/2019.

Kết quả xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước có dấu hiệu hồi phục mạnh mẽ hơn (tăng 10,6%) trong khi doanh số của các doanh nghiệp xuất khẩu thuộc khu vực nước ngoài giảm khoảng 5% so cùng kỳ năm trước.

Chuyên gia WB đánh giá, việc xuất khẩu của Việt Nam vẫn đứng vững (tương đương tháng 7/2019) thể hiện khả năng chống chịu ở mức độ ngoài dự kiến trong bối cảnh quốc tế đình trệ.

Theo ghi nhận của WB, trong tháng 7, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam mạnh hơn so với tháng 5 và tháng 6. Nhưng về tổng thể, tổng cam kết vốn FDI giảm 7% trong 7 tháng đầu năm 2020 (so cùng kỳ năm trước).

Xu hướng tăng từ cuối tháng 4 theo quan sát cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài ngày càng quan tâm đến Việt Nam, là quốc gia vượt trước quỹ đạo của dịch Covid-19 mà lại nằm gần Trung Quốc, nhờ vậy có thể tận dụng được quá trình tái cơ cấu các chuỗi giá trị toàn cầu và nỗ lực đa dạng hóa rủi ro hiện nay của các công ty đa quốc gia.

Tăng trưởng tín dụng thấp chưa từng có: Cần theo dõi thận trọng

Một điểm đáng chú ý trong bức tranh vĩ mô của Việt Nam là chỉ số CPI của tháng 7 vẫn đi ngang so với tháng 6 còn lạm phát cơ bản ghi nhận mức tăng rất nhỏ.

Lạm phát tháng 7 tăng nhẹ lên 3,4% (so cùng kỳ năm trước) chủ yếu do giá vận tải giảm, trong khi giá lương thực thực phẩm.

Chuyên gia WB: Việt Nam có khả năng chống chịu
Tăng trưởng tín dụng thấp chưa từng có

Trong khi đó, tăng trưởng tín dụng lại hạ nhiệt. Tỷ lệ biến động tín dụng với nền kinh tế so cùng kỳ năm trước giảm mạnh kể từ tháng 2, xuống 9,9% vào tháng 6.

Tỷ lệ trên mặc dù thấp chưa từng có, nhưng vẫn cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng GDP. Điều đó cho thấy NHNN đã nới lỏng chính sách tiền tệ và tín dụng để hỗ trợ các doanh nghiệp dễ bị tổn thương.

“Mặc dù có lý do, nhưng chính sách trên cần được theo dõi thận trọng vì nó làm giảm biên lợi nhuận của ngân hàng trong điều kiện tỷ lệ nợ xấu vốn dĩ đang tăng nhanh” - chuyên gia WB đưa ra khuyến nghị.

Bội chi ngân sách dự kiến tăng, do số thu của Chính phủ trong nửa đầu của năm chỉ bằng 76% so với cùng kỳ năm 2019, theo báo cáo. Trong khi đó, chi tiêu lại tăng do phải triển khai các biện pháp xã hội nhằm giảm nhẹ tác động của khủng hoảng bên cạnh những nỗ lực nhằm đẩy nhanh triển khai chương trình đầu tư để kích thích khôi phục kinh tế.

Tóm lại, theo đánh giá của WB, nền kinh tế Việt Nam đã nhanh chóng phục hồi sau khi những hạn chế trong nước do cách ly chống Covid-19 được gỡ bỏ, đồng thời xuất khẩu đạt kết quả tương đối tốt.

Tuy nhiên, đợt bùng phát của dịch vào cuối tháng 7/2020 ở Đà Nẵng và các biện pháp ứng phó nhằm kiểm soát bệnh dịch của chính quyền có thể gây ảnh hưởng đến khôi phục kinh tế trong thời gian tới.

Theo đó, chuyên gia WB cho rằng, cần quan tâm hơn nữa đến diễn biến phát triển của dịch bệnh, tác động tài khóa và chính sách xử lý trong trung và dài hạn.

Theo Dân trí

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC HCM 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC ĐN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Nguyên liệu 9999 - HN 68,950 ▲100K 69,500 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 68,850 ▲100K 69,400 ▲50K
AVPL/SJC Cần Thơ 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Cập nhật: 29/03/2024 18:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
TPHCM - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Hà Nội - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Hà Nội - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Đà Nẵng - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Đà Nẵng - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Miền Tây - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Miền Tây - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 69.200 ▲800K 70.000 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 51.250 ▲600K 52.650 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.700 ▲470K 41.100 ▲470K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.870 ▲330K 29.270 ▲330K
Cập nhật: 29/03/2024 18:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,885 ▲50K 7,040 ▲50K
Trang sức 99.9 6,875 ▲50K 7,030 ▲50K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NL 99.99 6,880 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,880 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Nghệ An 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Hà Nội 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Cập nhật: 29/03/2024 18:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 81,000
SJC 5c 79,000 81,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 81,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 69,200 ▲700K 70,450 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 69,200 ▲700K 70,550 ▲700K
Nữ Trang 99.99% 69,100 ▲700K 69,950 ▲700K
Nữ Trang 99% 67,757 ▲693K 69,257 ▲693K
Nữ Trang 68% 45,721 ▲476K 47,721 ▲476K
Nữ Trang 41.7% 27,322 ▲292K 29,322 ▲292K
Cập nhật: 29/03/2024 18:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,728.49 15,887.36 16,397.67
CAD 17,838.70 18,018.89 18,597.66
CHF 26,804.54 27,075.29 27,944.96
CNY 3,362.31 3,396.27 3,505.89
DKK - 3,514.56 3,649.29
EUR 26,020.03 26,282.86 27,447.78
GBP 30,490.41 30,798.39 31,787.64
HKD 3,088.58 3,119.77 3,219.98
INR - 296.75 308.63
JPY 158.93 160.54 168.22
KRW 15.91 17.67 19.28
KWD - 80,424.52 83,642.95
MYR - 5,198.02 5,311.59
NOK - 2,236.06 2,331.08
RUB - 255.72 283.10
SAR - 6,594.46 6,858.36
SEK - 2,266.43 2,362.75
SGD 17,918.05 18,099.04 18,680.38
THB 601.86 668.73 694.37
USD 24,600.00 24,630.00 24,970.00
Cập nhật: 29/03/2024 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,845 15,865 16,465
CAD 17,998 18,008 18,708
CHF 27,013 27,033 27,983
CNY - 3,367 3,507
DKK - 3,498 3,668
EUR #25,900 26,110 27,400
GBP 30,738 30,748 31,918
HKD 3,041 3,051 3,246
JPY 159.78 159.93 169.48
KRW 16.22 16.42 20.22
LAK - 0.68 1.38
NOK - 2,202 2,322
NZD 14,574 14,584 15,164
SEK - 2,243 2,378
SGD 17,829 17,839 18,639
THB 629.41 669.41 697.41
USD #24,563 24,603 25,023
Cập nhật: 29/03/2024 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,620.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,213.00 26,318.00 27,483.00
GBP 30,653.00 30,838.00 31,788.00
HKD 3,106.00 3,118.00 3,219.00
CHF 26,966.00 27,074.00 27,917.00
JPY 159.88 160.52 167.96
AUD 15,849.00 15,913.00 16,399.00
SGD 18,033.00 18,105.00 18,641.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,979.00 18,051.00 18,585.00
NZD 14,568.00 15,057.00
KRW 17.62 19.22
Cập nhật: 29/03/2024 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24612 24662 25002
AUD 15963 16013 16415
CAD 18109 18159 18560
CHF 27305 27355 27767
CNY 0 3399.9 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26480 26530 27037
GBP 31120 31170 31630
HKD 0 3115 0
JPY 161.92 162.42 166.95
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0254 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14609 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18235 18235 18596
THB 0 642.4 0
TWD 0 777 0
XAU 7910000 7910000 8060000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 29/03/2024 18:45