Chuyên gia nhận định: Kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi vào quý 2/2021

07:04 | 26/08/2020

132 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Đó là nhận định của ông Nguyễn Xuân Thành, Giảng viên đại học Fulbright Việt Nam tại tọa đàm vừa diễn ra ở TPHCM, khi đánh giá về tình hình phục hồi của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian sắp tới.

Theo ông Nguyễn Xuân Thành, tăng trưởng kinh tế toàn cầu quý 1 xấu. Tuy nhiên quý 2 lại càng xấu hơn ở tất cả các nền kinh tế, ngoại trừ Trung Quốc và Việt Nam vẫn có tăng trưởng dương. Điều này ảnh hưởng đến kinh tế đối ngoại ở Việt Nam, đặc biệt là vấn đề xuất khẩu.

Mỹ và Anh tăng trưởng suy giảm nặng trong quý 2; khu vực ASEAN cũng suy giảm khá nặng nề. Ba nền kinh tế có thu nhập cao là Thái Lan, Malaysia và Singapore đều có tăng trưởng âm lần lượt 12,22, 17,1 và 13,2%. EU và khu vực ASEAN đang kéo xuất khẩu Việt Nam xuống nhưng được bù lại bởi xuất khẩu sang Mỹ và Trung Quốc.

Chuyên gia nhận định: Kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi vào quý 2/2021
Ông Nguyễn Xuân Thành chia sẻ về tình hình nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua.

Cũng theo ông Thành, tăng trưởng kinh tế toàn cầu vẫn xấu trong quý 3 và quý 4/2020. Đến năm 2021, nền kinh tế sẽ phục hồi nhờ các phản ứng chính sách khá tích cực ở hầu hết các nước trong thời gian qua. Thế nhưng, không có nghĩa sẽ trở lại bình thường, vì tốc độ tăng trưởng sẽ bù đắp lại một phần sự suy giảm của năm 2020.

“Ngoại trừ Trung Quốc và Việt Nam, các nước khác đều bơm mạnh tiền ra nền kinh tế, hầu hết đều giảm thuế và tăng chi. Khoảng 11.000 tỷ USD đã được các Chính phủ đưa ra từ phía tài khóa để hỗ trợ người lao động và doanh nghiệp. Chính sách này sẽ đảm bảo cho khả năng hồi phục kinh tế trong năm 2021 khi đại dịch được kiểm soát…”, ông Thanh cho hay.

Theo giảng viên đại học Fulbright Việt Nam, ở Việt Nam dự báo tăng trưởng kinh tế lạc quan nhất ở mức 2%. Tuy nhiên, khả năng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2021 sẽ rất cao.

Cụ thể, từ quý 2/2021 nền kinh tế sẽ phục hồi với hai điều kiện. Đầu tiên là kiểm soát được Covid-19 và khả năng vacxin có được ở Việt Nam vào giữa năm 2021. Thứ hai, cho dù tỷ lệ thất nghiệp và nợ xấu tăng cao, nhưng hệ thống ngân hàng vẫn có thể đứng vững.

Ông Thành cho rằng, Chính phủ khá tự tin đảm bảo tăng trưởng 4%, nhưng với đợt bùng phát dịch vừa rồi thì dự báo tăng trưởng quý 3 sẽ xấu. Nếu giải ngân vốn đầu tư công tạo nên cú huých mạnh thì tăng trưởng sẽ ở mức lạc quan là 2%. Hiện nay tăng trưởng ở tất cả các lĩnh vực đang giảm.

Trong đó, nhà hàng, khách sạn và vận tải là những ngành dịch vụ bị suy giảm mạnh. Riêng lĩnh vực nhà hàng khách sạn giảm 20,7% so với cùng kỳ năm trước. Ngoài ra, ở phía cầu của nền kinh tế trong năm 2020, dù kiểm soát khá tốt Covid-19, các hoạt động kinh tế không bị gián đoạn nhưng sức mua vẫn yếu.

Cho đến thời điểm hiện tại, sức mua mới bị gián đoạn vòng 1 vì giãn cách xã hội người dân không có cơ hội mua sắm. Đến quý 3 sẽ là thời điểm sức mua thị tường bị sụt giảm do thu nhập của người lao động giảm. Sức mua giảm này sẽ kéo dài đến quý 1/2021.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ thất nghiệp trong quý 1/2020 là 2,22%, bước sang quý 2 tăng vọt lên 2,73%.

“Dù vậy, vẫn có những tín hiệu tích cực. Xuất khẩu Việt Nam không giảm mà tăng 0,2% trong sáu tháng đầu năm. Xuất khẩu sang Mỹ và Trung Quốc không giảm mà còn tăng. Trong đó, các mặt hàng xuất khẩu điện tử, chế tạo máy tăng cao. Điều này thể hiện xu hướng dịch chuyển do tác động của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung. Hoạt động sản xuất công nghiệp chuyển từ các nước vẫn bị xáo trộn bởi Covid-19 sang Việt Nam”, ông Thành phát biểu.

Chuyên gia nhận định: Kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi vào quý 2/2021
Nền kinh tế Việt Nam được đánh giá sẽ phục hồi và tăng trưởng trong quý 2/2021

Ông Thành đánh giá, khác với những lần khủng hoảng trước, ổn định vĩ mô vẫn được duy trì. Tuy nhiên, nợ xấu ngân hàng, lạm phát sau khi giảm liên tục trong tháng 6 có tăng, chỉ số giá vẫn giảm so với cuối năm 2019.

Về tỷ giá, chỉ có một lần bất ổn vào tháng 3. Trong những tháng gần đây, đồng USD đã giảm mạnh so với các đồng tiền khác. Đồng tiền Việt Nam lên giá khoảng 1,3% so với đô la Mỹ.

Về giải ngân vốn đầu tư công, đây là một ưu tiên chính sách của Nhà nước trong thời điểm này. Đầu tư từ ngân sách dự kiến tăng khoảng 20%, giúp GDP tăng lên 2%.

Theo Dân trí

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 84,000
AVPL/SJC HCM 82,000 84,000
AVPL/SJC ĐN 82,000 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 74,400 75,600
Nguyên liệu 999 - HN 74,300 75,500
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 84,000
Cập nhật: 19/04/2024 00:02
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 82.100 84.100
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 82.100 84.100
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 82.100 84.100
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 19/04/2024 00:02
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,435 7,650
Trang sức 99.9 7,425 7,640
NL 99.99 7,430
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,410
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,500 7,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,500 7,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,500 7,680
Miếng SJC Thái Bình 8,210 8,400
Miếng SJC Nghệ An 8,210 8,400
Miếng SJC Hà Nội 8,210 8,400
Cập nhật: 19/04/2024 00:02
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,100 84,100
SJC 5c 82,100 84,120
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,100 84,130
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,700 76,600
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,700 76,700
Nữ Trang 99.99% 74,600 75,900
Nữ Trang 99% 73,149 75,149
Nữ Trang 68% 49,267 51,767
Nữ Trang 41.7% 29,303 31,803
Cập nhật: 19/04/2024 00:02

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,802.74 15,962.37 16,474.59
CAD 17,830.93 18,011.04 18,589.00
CHF 27,037.08 27,310.18 28,186.55
CNY 3,419.83 3,454.37 3,565.76
DKK - 3,534.07 3,669.44
EUR 26,168.83 26,433.16 27,603.92
GBP 30,667.37 30,977.14 31,971.18
HKD 3,144.63 3,176.39 3,278.32
INR - 301.14 313.19
JPY 158.53 160.13 167.79
KRW 15.77 17.53 19.12
KWD - 81,790.33 85,060.87
MYR - 5,219.21 5,333.08
NOK - 2,258.10 2,353.99
RUB - 254.56 281.80
SAR - 6,718.10 6,986.74
SEK - 2,263.43 2,359.55
SGD 18,067.70 18,250.20 18,835.84
THB 606.11 673.46 699.26
USD 25,100.00 25,130.00 25,440.00
Cập nhật: 19/04/2024 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,037 16,057 16,657
CAD 18,172 18,182 18,882
CHF 27,367 27,387 28,337
CNY - 3,443 3,583
DKK - 3,542 3,712
EUR #26,238 26,448 27,738
GBP 31,116 31,126 32,296
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.25 160.4 169.95
KRW 16.24 16.44 20.24
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,225 2,345
NZD 14,775 14,785 15,365
SEK - 2,249 2,384
SGD 18,118 18,128 18,928
THB 638.27 678.27 706.27
USD #25,145 25,145 25,440
Cập nhật: 19/04/2024 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,100.00 25,120.00 25,440.00
EUR 26,325.00 26,431.00 27,607.00
GBP 30,757.00 30,943.00 31,897.00
HKD 3,164.00 3,177.00 3,280.00
CHF 27,183.00 27,292.00 28,129.00
JPY 159.58 160.22 167.50
AUD 15,911.00 15,975.00 16,463.00
SGD 18,186.00 18,259.00 18,792.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 17,956.00 18,028.00 18,551.00
NZD 14,666.00 15,158.00
KRW 17.43 19.02
Cập nhật: 19/04/2024 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25225 25275 25442
AUD 16138 16188 16591
CAD 18211 18261 18666
CHF 27736 27786 28199
CNY 0 3479.7 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26808 26858 27368
GBP 31508 31558 32018
HKD 0 3115 0
JPY 162.51 163.01 167.54
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0372 0
MYR 0 5400 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14819 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18515 18515 18872
THB 0 651.3 0
TWD 0 777 0
XAU 8220000 8220000 8390000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 19/04/2024 00:02