Chính phủ Nhật Bản khổ vì giá cả quá ổn định

09:59 | 13/01/2020

382 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Ngay cả những người Nhật đủ già để nhớ lạm phát là gì cũng không chấp nhận quan điểm nền kinh tế cần có lạm phát của ngân hàng trung ương.

Ở Nhật Bản, nhiều người không có khái niệm hàng hóa phải tăng giá đều đặn theo thời gian. "Những người sinh ra trong thập niên 1980 và 1990 hầu như không có trải nghiệm về lạm phát. Vì vậy, ngay cả khi họ được thông báo rằng lạm phát đang đến, họ vẫn không tin điều đó", ông Tsutomu Watanabe, Giáo sư Đại học Tokyo và là cựu nhân viên ngân hàng trung ương nước này cho biết.

Một thanh niên 20 tuổi ở Nhật Bản ngày nay đã trải qua mức lạm phát trung bình 0,1% trong suốt cuộc đời. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản Haruhiko Kuroda nói rằng mục tiêu lạm phát 2% là không thể đạt được.

chinh phu nhat ban kho vi gia ca qua on dinh
Chỉ số giá tiêu dùng tại Nhật Bản các thập niên qua. Đồ họa: WSJ

Một giai đoạn giá gần như đi ngang quá dài là bản chất của quá trình "Nhật Bản hóa", mà cả Mỹ và châu Âu đều đang sợ rơi vào. Tương tự Ngân hàng Nhật Bản, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) mong muốn lạm phát ở mức 2% vì thấy nó phù hợp với một nền kinh tế lành mạnh. Dù lạm phát của Mỹ đã tiến gần tới mức đó nhưng vẫn thấp hơn mục tiêu trong nhiều năm qua.

Chính vì thế, các quan chức Fed đang xem xét nhiều phương pháp để tránh rơi vào bẫy lạm phát thấp đã khiến Nhật Bản "khốn đốn". Các lựa chọn được cân nhắc bao gồm cho phép rõ ràng hơn hoặc thậm chí là khuyến khích lạm phát trên 2% để nâng cao kỳ vọng lạm phát của công chúng.

Bởi lẽ, các ngân hàng trung ương tin rằng, kỳ vọng lạm phát thấp có thể dẫn đến tâm lý là người tiêu dùng sẽ chùn bước nếu giá cả hàng hoá cao hơn và doanh nghiệp sẽ kiềm chế trong việc tăng giá cả và tiền lương.

"Lạm phát phần lớn dưới mục tiêu của chúng ta có thể dẫn đến một động lực không lành mạnh, khiến kỳ vọng lạm phát dài hạn giảm xuống và kéo lạm phát thực tế thậm chí còn thấp hơn", Chủ tịch Fed Jerome Powell nói trong một cuộc họp báo ngày 11/12.

Natsumi Ozaki, sinh viên đại học làm việc bán thời gian tại Tokyo Disney Resort, đã từ chối mua một món đồ lưu niệm sau khi nó tăng giá. "Tôi thường ngạc nhiên khi một thứ nhỏ như vậy có thể có giá cao đến thế. Tôi đôi khi phải từ bỏ việc mua hàng vì có giá cao hơn tôi nhớ", cô cho biết.

Nghiên cứu của ông Kuroda chỉ ra rằng kỳ vọng lạm phát thấp đã khiến lạm phát ở Nhật không thể tăng nổi. Người tiêu dùng nước này đã quen với việc giá hàng hóa thấp và trừng phạt bất kỳ nhà bán lẻ nào cố gắng tăng giá.

Rina Sato, một sinh viên đại học 22 tuổi, cho biết cô không mua nước ngọt thời gian gần đây vì các siêu thị trong khu phố không chịu giảm giá bán. "Vì tôi biết giá có thể thấp hơn nên tôi không muốn mua với giá thông thường. Nếu chờ một lúc nữa, giá có thể sẽ giảm", cô nói.

Hideo Hayakawa, cựu giám đốc điều hành Ngân hàng Nhật Bản, nhớ lại phản ứng dữ dội từ các nhà kinh tế trẻ sau khi ngân hàng trung ương bắt đầu mua một lượng lớn trái phiếu từ các ngân hàng thương mại nhằm nỗ lực thúc đẩy lạm phát.

Ông giải thích, khi người tiêu dùng nhìn thấy dòng tiền lớn đổ vào hệ thống ngân hàng thương mại nhờ vào việc bán trái phiếu thì chắc chắn sẽ chuẩn bị cho lạm phát cao hơn. Các nhà kinh tế trẻ cho rằng vì người dân không quen với việc tăng giá nên có dùng cách này thì họ vẫn không chấp nhận lạm phát. Và họ đã nói đúng.

Ngay cả những người Nhật đủ già để còn nhớ đến lạm phát là gì thì dường như họ cũng không chấp nhận quan điểm cần phải có lạm phát của các ngân hàng trung ương. Đối với Ngân hàng Nhật Bản và Fed, lạm phát ổn định ở mức 2% là để tránh cho quốc gia rơi vào vòng xoáy của giá cả hàng hóa giảm, tiền lương giảm và nhu cầu yếu. Nhưng với người dân Nhật bình thường, giá tăng có vẻ là một biểu hiện xấu.

Các quan chức Fed tại cuộc họp tháng 12/2019 đã đồng ý rằng họ cần trao đổi rõ ràng hơn với công chúng về lý do Fed muốn và cam kết thực hiện lạm phát 2% trên cơ sở bền vững.

Một vấn đề khác đối với nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới là họ cắt giảm lãi suất xuống gần hoặc dưới 0 sau cuộc khủng hoảng tài chính để thúc đẩy tăng trưởng và lạm phát. Giờ thì với lạm phát và lãi suất đã rất thấp, họ ít có cơ hội hạ lãi suất trong cuộc suy thoái tiếp theo.

Cựu Bộ trưởng Tài chính Mỹ Lawrence Summers cho biết trong một cuộc phỏng vấn gần đây rằng các ngân hàng trung ương đã "cạn kiệt đạn dược". "Một khi bạn tiến tới lãi suất gần như bằng không, thì nó giống như một lỗ đen", ông nói.

chinh phu nhat ban kho vi gia ca qua on dinh
Người Nhật đã quá quen với giá ổn định nên sẽ quay lưng nếu món hàng nào tăng giá. Ảnh: Bloomberg

Ông Kuroda cho rằng việc nâng lạm phát cho Nhật vẫn khả thi, nhưng phải mất nhiều thời gian. Theo ông, tăng dần tiền lương và giá cả ở mức độ nhẹ sẽ thay đổi nhận thức về giá cả trong tương lai.

Rentaro Nomura, một sinh viên đại học 22 tuổi, đã được tăng lương 2 lần trong 4 năm qua trong công việc bán thời gian tại trung tâm tiệc cưới, nơi anh ta kiếm được gần 13 USD mỗi giờ. Anh muốn nhận việc toàn thời gian sau khi tốt nghiệp và hy vọng lương sẽ tăng tiếp.

Nhưng anh cũng muốn tiết kiệm thu nhập vì lo lắng cho cuộc sống sau khi nghỉ hưu. Điều này phản ánh rằng, người Nhật vẫn sợ lương có tăng vẫn không đủ tiền trang trải cuộc sống nhiều tốn kém hơn.

Do vậy, Giáo sư Watanabe của Đại học Tokyo không lạc quan như ông Kuroda. "Quan điểm về giá cả trong số những người ở độ tuổi 20 và 30 có lẽ sẽ không bao giờ thay đổi trong suốt quãng đời còn lại", ông nói.

Theo Vnexpress.net

chinh phu nhat ban kho vi gia ca qua on dinhLãi suất trái phiếu Chính phủ giảm xuống mức kỷ lục
chinh phu nhat ban kho vi gia ca qua on dinhTăng cường phổ biến quy định xử phạt vi phạm nồng độ cồn đến người dân
chinh phu nhat ban kho vi gia ca qua on dinhTiến độ giải ngân 6 dự án vay vốn ODA của Chính phủ Italia chậm

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC HCM 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC ĐN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Nguyên liệu 9999 - HN 68,950 ▲100K 69,500 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 68,850 ▲100K 69,400 ▲50K
AVPL/SJC Cần Thơ 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Cập nhật: 29/03/2024 17:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
TPHCM - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Hà Nội - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Hà Nội - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Đà Nẵng - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Đà Nẵng - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Miền Tây - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Miền Tây - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 69.200 ▲800K 70.000 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 51.250 ▲600K 52.650 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.700 ▲470K 41.100 ▲470K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.870 ▲330K 29.270 ▲330K
Cập nhật: 29/03/2024 17:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,885 ▲50K 7,040 ▲50K
Trang sức 99.9 6,875 ▲50K 7,030 ▲50K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NL 99.99 6,880 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,880 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Nghệ An 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Hà Nội 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Cập nhật: 29/03/2024 17:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 81,000
SJC 5c 79,000 81,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 81,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 69,200 ▲700K 70,450 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 69,200 ▲700K 70,550 ▲700K
Nữ Trang 99.99% 69,100 ▲700K 69,950 ▲700K
Nữ Trang 99% 67,757 ▲693K 69,257 ▲693K
Nữ Trang 68% 45,721 ▲476K 47,721 ▲476K
Nữ Trang 41.7% 27,322 ▲292K 29,322 ▲292K
Cập nhật: 29/03/2024 17:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,728.49 15,887.36 16,397.67
CAD 17,838.70 18,018.89 18,597.66
CHF 26,804.54 27,075.29 27,944.96
CNY 3,362.31 3,396.27 3,505.89
DKK - 3,514.56 3,649.29
EUR 26,020.03 26,282.86 27,447.78
GBP 30,490.41 30,798.39 31,787.64
HKD 3,088.58 3,119.77 3,219.98
INR - 296.75 308.63
JPY 158.93 160.54 168.22
KRW 15.91 17.67 19.28
KWD - 80,424.52 83,642.95
MYR - 5,198.02 5,311.59
NOK - 2,236.06 2,331.08
RUB - 255.72 283.10
SAR - 6,594.46 6,858.36
SEK - 2,266.43 2,362.75
SGD 17,918.05 18,099.04 18,680.38
THB 601.86 668.73 694.37
USD 24,600.00 24,630.00 24,970.00
Cập nhật: 29/03/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,908 16,008 16,458
CAD 18,063 18,163 18,713
CHF 27,064 27,169 27,969
CNY - 3,396 3,506
DKK - 3,535 3,665
EUR #26,274 26,309 27,569
GBP 30,935 30,985 31,945
HKD 3,096 3,111 3,246
JPY 160.61 160.61 168.56
KRW 16.62 17.42 20.22
LAK - 0.88 1.24
NOK - 2,245 2,325
NZD 14,570 14,620 15,137
SEK - 2,266 2,376
SGD 17,938 18,038 18,638
THB 628.83 673.17 696.83
USD #24,570 24,650 24,990
Cập nhật: 29/03/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,620.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,213.00 26,318.00 27,483.00
GBP 30,653.00 30,838.00 31,788.00
HKD 3,106.00 3,118.00 3,219.00
CHF 26,966.00 27,074.00 27,917.00
JPY 159.88 160.52 167.96
AUD 15,849.00 15,913.00 16,399.00
SGD 18,033.00 18,105.00 18,641.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,979.00 18,051.00 18,585.00
NZD 14,568.00 15,057.00
KRW 17.62 19.22
Cập nhật: 29/03/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24612 24662 25002
AUD 15963 16013 16415
CAD 18109 18159 18560
CHF 27305 27355 27767
CNY 0 3399.9 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26480 26530 27037
GBP 31120 31170 31630
HKD 0 3115 0
JPY 161.92 162.42 166.95
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0254 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14609 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18235 18235 18596
THB 0 642.4 0
TWD 0 777 0
XAU 7910000 7910000 8060000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 29/03/2024 17:00