Cần duy trì động lực cho xuất khẩu

14:49 | 27/12/2019

366 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam Jacques Morisset đánh giá, trong khi xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng gần 30% thì các thị trường khác chỉ tăng 3,6% trong 11 tháng năm 2019. Việt Nam đang tập trung quá nhiều vào thị trường Mỹ. Đây là một rủi ro cho triển vọng xuất khẩu của Việt Nam.

Kinh tế tăng trưởng ổn định

Báo cáo “Điểm lại”, cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam năm 2019, của WB chỉ rõ, Việt Nam đã chứng tỏ được sức sống kinh tế dẻo dai với kết quả ấn tượng của xuất khẩu và tiêu dùng nội địa trong bối cảnh kinh tế toàn cầu bất định. Việt Nam ước đạt mức tăng trưởng nhanh thứ 2 Đông Nam Á, đạt 7,1% năm 2018 và 6,8% năm 2019, cao hơn gần 4 lần so với bình quân trên thế giới. Kết quả tăng trưởng vững vàng đó có được là nhờ sự đóng góp của hai yếu tố chính: tăng trưởng xuất khẩu và sức cầu trong nước.

can duy tri dong luc cho xuat khau
Xuất khẩu chịu tác động mạnh bởi các yếu tố từ bên ngoài

Bên cạnh đó, báo cáo đánh giá, Chính phủ đã duy trì chính sách tài khóa khôn ngoan, thận trọng góp phần giảm tỷ lệ nợ/GDP. Nợ công dự kiến còn 56%/GDP cuối năm 2019, giảm gần 8 điểm phần trăm so với đỉnh theo báo cáo của năm 2016. Với chính sách tài khóa ứng phó với biến động chu kỳ như vậy, các cấp có thẩm quyền không chỉ đưa ra tín hiệu tích cực và mạnh mẽ cho thị trường về cam kết duy trì nợ và kinh tế vĩ mô bền vững, mà còn tạo thêm dư địa tài khóa.

Mặt khác, chi tiêu công thấp hơn trong năm 2019 nhờ sự góp phần của chi đầu tư giảm 5,6% từ năm 2018 đến năm 2019. Nguyên nhân của sự sụt giảm này được lý giải một phần là do chính sách củng cố tình hình tài khóa của Chính phủ, nhưng cũng phản ánh tốc độ giải ngân chậm theo chương trình đầu tư mới được Quốc hội phê chuẩn.

Theo đánh giá của WB, tăng trưởng GDP của Việt Nam được duy trì nhờ vào khu vực kinh tế đối ngoại vững mạnh, xuất khẩu dự kiến tăng 8% trong năm 2019, cao hơn gần 4 lần so với bình quân trên thế giới. “Sự ổn định đó cho thấy khu vực kinh tế đối ngoại của Việt Nam có khả năng chống chịu ở thời điểm các thị trường trên toàn cầu và ở các nền kinh tế thị trường mới nổi đang phải chấp nhận suy giảm về lưu lượng thương mại và dòng vốn đầu tư” - ông Jacques Morisset, chuyên gia kinh tế trưởng của WB tại Việt Nam, nhận định.

Các chuyên gia của WB nhận định: Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn chống chịu được các cú sốc từ bên ngoài, thể hiện ở việc tăng trưởng xuất khẩu giảm từ 21% năm 2017 xuống 8% năm 2019. Tăng trưởng xuất khẩu còn giảm rõ ràng hơn khi các thị trường xuất khẩu ngoài Mỹ chỉ tăng được 3,6% trong 11 tháng năm 2019.

Đánh giá về những mặt thuận lợi, báo cáo của WB nhấn mạnh đến điểm hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Hiện dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cam kết bình quân đạt gần 3 tỉ USD mỗi tháng. Bên cạnh đó, tiêu dùng cá nhân của các hộ gia đình là yếu tố đóng góp ngày càng quan trọng cho tăng trưởng GDP, khi tầng lớp trung lưu ngày một đông đảo và mức lương tăng lên. Đầu tư của doanh nghiệp khu vực tư nhân tăng ở mức 17% so với năm 2018... Đối với ngắn hạn và trung hạn, WB dự báo GDP của Việt Nam tăng trưởng quanh mức 6,5% trong những năm tới. Các yếu tố căn bản của kinh tế Việt Nam vẫn vững vàng.

Từ những thuận lợi đó, triển vọng trước mắt và trong trung hạn của Việt Nam được WB dự báo là tích cực khi GDP tăng trưởng quanh mức 6,5% trong những năm tới. Lạm phát năm 2019 dự báo ở mức 3% và xoay quanh mức 3,3% trong 2 năm tiếp theo. Bội chi từng bước giảm từ 3,4% GDP năm 2019 xuống 3,2% GDP năm 2021, phù hợp với cam kết tiếp tục giảm nợ công. Nợ công/GDP (theo cách tính của Bộ Tài chính) được dự báo tiếp tục giảm xuống 54,3% năm 2020 và 53,3% năm 2021...

Phát triển các thị trường vốn

Mặc dù có nhiều triển vọng tăng trưởng kinh tế song các chuyên gia của WB nhận định: Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn chống chịu được các cú sốc từ bên ngoài. Điều này được thể hiện ở việc tăng trưởng xuất khẩu giảm từ 21% năm 2017 xuống 8% năm 2019. Tăng trưởng xuất khẩu còn giảm rõ ràng hơn nếu nhìn vào các thị trường xuất khẩu ngoài Mỹ, chỉ tăng được 3,6% trong 11 tháng năm 2019.

“Tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam đạt gần 10% trong năm 2019 là kết quả rất tốt, nhưng cần phải phân biệt giữa xuất khẩu sang thị trường Mỹ và thị trường ngoài Mỹ. Trong khi xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng gần 30% thì các thị trường khác chỉ tăng 3,6% trong 11 tháng năm 2019. Việt Nam đang tập trung quá nhiều vào thị trường Mỹ”, ông Jacques Morisset cho biết. Đồng thời ông Jacques Morisset đánh giá đây là một rủi ro cho triển vọng xuất khẩu của Việt Nam. Bên cạnh đó, FDI vào các cơ sở kinh doanh mới tại Việt Nam cũng tăng chậm lại 30% so với 2 năm trước, kể cả đã tính đến đầu tư qua kênh mua bán và sáp nhập doanh nghiệp (M&A).

Nhìn từ trong nước, sự chậm trễ trong triển khai những cải cách cơ cấu có thể làm cho viễn cảnh tăng trưởng trung hạn trở nên xấu đi. Chương trình cổ phần hóa và tái cơ cấu DNNN đã bị chững lại đáng kể trong những tháng qua. Nhìn từ bên ngoài, tranh chấp thương mại giữa các nền kinh tế lớn có thể ảnh hưởng xấu đến đà xuất khẩu trong ngắn hạn, trong khi đó nền kinh tế Việt Nam vẫn dễ bị ảnh hưởng nếu nền kinh tế toàn cầu tiếp tục suy giảm. Nếu cả xuất khẩu và dòng vốn FDI đều chững lại, nền kinh tế Việt Nam có thể mất đi động lực tăng trưởng chính.

Ông Ousmane Dione, Giám đốc quốc gia WB tại Việt Nam nhận định, để gia tăng thêm động lực tăng trưởng cho nền kinh tế, Chính phủ cần ưu tiên phát triển khu vực tư nhân vững mạnh và năng động. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp đang hoạt động ở thị trường trong nước đang phải đối mặt với những trở ngại lớn, hạn chế sự phát triển, trong đó, cụ thể nhất và rõ ràng nhất là khả năng tiếp cận tín dụng.

“Xử lý những hạn chế về huy động tài chính cho doanh nghiệp cần nhận được sự quan tâm cao nhất của các nhà hoạch định chính sách nếu Việt Nam muốn tiếp tục đi trong quỹ đạo tăng trưởng nhanh và bao trùm hướng tới trở thành quốc gia thu nhập cao trong những thập niên tới” - ông Ousmane Dione khuyến nghị.

Mặc dù các thị trường vốn ở Việt Nam được đánh giá đã phát triển mạnh trong những năm qua, song nếu so sánh với Thái Lan và Malaysia thì vẫn còn rất khiêm tốn.

Để phát triển các thị trường vốn, báo cáo của WB khuyến nghị 5 lĩnh vực mà các nhà hoạch định chính sách cần quan tâm, bao gồm: Hiện đại hóa nền tảng và hệ thống quy phạm pháp luật về thị trường vốn; cải thiện quản trị và công bố thông tin; mở rộng mạng lưới các nhà đầu tư; phát triển các sản phẩm sáng tạo; tăng cường vai trò của Chính phủ trong phát triển các nguồn huy động tài chính dài hạn.

Phát triển các thị trường vốn, vận hành tốt sẽ làm nền tảng cho sự thịnh vượng trong tương lai. Theo kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới, bao gồm cả ở khu vực Đông Á, thị trường cổ phiếu và trái phiếu hoạt động tốt có thể giúp huy động vốn cho sản xuất kinh doanh trong nước, bổ sung cho nguồn vốn vay từ hệ thống ngân hàng và đa dạng hóa các nguồn vốn huy động, góp phần nâng cao khả năng chống chịu của toàn bộ hệ thống tài chính.

Minh Loan