Cần đánh giá mức độ tối ưu
Ông Nguyễn Ánh Dương - Phó trưởng Ban Chính sách kinh tế vĩ mô, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương |
Ngày 23-11-2017, Quỹ Hỗ trợ chương trình, dự án An sinh xã hội Việt Nam (AFV) và Tổ chức ActionAid quốc tế tại Việt Nam (AAV) đã tổ chức Tọa đàm về “Các hiệp định tránh đánh thuế hai lần và vấn đề việc làm thỏa đáng cho phụ nữ - một số quan sát và kiến nghị” với mục đích gây ảnh hưởng đến việc xây dựng các chính sách kinh tế, thuế để cải thiện cuộc sống người chịu nhiều thiệt thòi, đặc biệt là phụ nữ. Việt Nam đã tham gia vào 77 DTTs từ năm 1992, nhiều hơn tổng số các DTTs đã ký kết với cả 4 nước Lào, Myanmar, Campuchia và Philippines cộng lại.
Theo nghiên cứu về các hiệp định thuế toàn cầu của Tổ chức ActionAid quốc tế (Tổ chức quốc tế về chống đói, nghèo), khi so sánh các đặc trưng cơ bản của 519 DTTs và đánh giá mức độ mà mỗi hiệp định này bảo vệ hay hạn chế khả năng mà các nước đang phát triển có thể đánh thuế các công ty nước ngoài cho thấy: Các DTTs của Việt Nam có tính bảo hộ cao hơn so với các hiệp định của các nước đang phát triển và các nước thu nhập trung bình thấp.
Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra một số DTTs đã hạn chế quyền về thuế của Việt Nam. Đơn cử như DTTs giữa Việt Nam và Anh được ký kết và ban hành vào năm 1994. Thực tế cho thấy, vì nước Anh có nhiều hoạt động đầu tư vào Việt Nam hơn so với chiều ngược lại nên Việt Nam trở thành nước chịu thua thiệt khi các điều khoản trong hiệp định này hạn chế việc đánh thuế của Việt Nam.
Liên quan đến DTTs, trao đổi với phóng viên Báo Năng lượng Mới, ông Nguyễn Ánh Dương - Phó trưởng Ban Chính sách kinh tế vĩ mô, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho biết: “Thời gian vừa qua, chủ chương của chúng ta là chủ động mở cửa, đa dạng hóa, đa phương hóa hợp tác kinh tế quốc tế và khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Vì thế, cần tạo môi trường ổn định, tự do để thu hút đầu tư. Trong nỗ lực để khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài, cần có các hiệp định tránh đánh thuế hai lần nhằm giảm chi phí cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đến Việt Nam”.
Cũng theo ông Nguyễn Ánh Dương, để đánh giá đầy đủ các tác động từ các hiệp định DTTs cần phải phân tích và tìm hiểu đầy đủ các khía cạnh, từ việc thu hút đầu tư nước ngoài, đánh giá các dự án đầu tư nước ngoài đến Việt Nam và triển vọng thực hiện trong thời gian tới. Nghiên cứu của Tổ chức ActionAid quốc tế, với mục đích nhìn nhận lại các DTTs mà nước ta đã ký với các nước trong thời gian qua, để xem mức độ tác động của các hiệp định trong tương quan so với các nước đang phát triển ở trình độ tương đương, từ đó đưa ra các câu hỏi: Với số lượng ký kết các DTTs như vậy, Việt Nam đã đạt đến điểm tối ưu hay chưa? Hay vẫn cần cân nhắc và đàm phán ký kết thêm những hiệp định khác nữa? Trong trường hợp những DTTs đó không mang lại nhiều lợi ích như mong đợi, Việt Nam có nên rà soát và đàm phán lại các hiệp định này hay không?
Ông Nguyễn Ánh Dương cũng khẳng định: “Việt Nam không tránh các DTTs, bởi nước ta đang chủ động hơn trong quá trình hội nhập. Vì thế, Việt Nam mong muốn hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài để có những cơ hội, những nguồn lực từ nước ngoài đầu tư phát triển đất nước. Và, chính các DTTs, những hiệp định về bảo hộ đầu tư là những thông lệ chung trên toàn thế giới nhằm tạo điều kiện thu hút nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, nên cân nhắc mức độ tham gia các hiệp định này như thế nào là tối ưu để không ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách từ đầu tư nước ngoài và nguồn lực để cung ứng các dịch vụ công”.
Đặc biệt, từ khi có Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18-11-2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách Nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, thì yêu cầu về xem xét lại các DTTs được xem là vô cùng cần thiết. Bởi đây là một trong những nguyên nhân có thể ảnh hưởng đến khả năng thu thuế của ngân sách đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Hơn nữa, trong quan hệ quốc tế thường dựa trên nguyên tắc “có đi có lại”, đặc biệt với nhiều nước đối tác hiện nay của Việt Nam, việc chúng ta đầu tư ra nước ngoài và được hưởng lợi từ bên ngoài thì chưa nhìn thấy. Đối với người lao động của Việt Nam ra nước ngoài làm việc cũng chỉ tập trung ở một số thị trường nhất định, không phải thị trường nào có DTTs. Chính vì vậy, phần lợi mà Việt Nam thu được từ các hiệp định này chưa tương xứng với phần thu ngân sách mất đi khi dành cho nhà đầu tư nước ngoài và người nước ngoài đến Việt Nam làm việc. Tuy nhiên, để đàm phán lại những DTTs không phải việc dễ dàng, vì phải nhận được sự đồng thuận của đối tác.
Phó trưởng Ban Chính sách kinh tế vĩ mô một lần nữa nhấn mạnh: “Quan trọng hơn, nhìn từ những bài học trên, chúng ta cần rút ra kinh nghiệm để mỗi khi ký một DTTs với một đối tác nào khác, chúng ta có những cân nhắc thấu đáo hơn”.
DTTs được hiểu là những thỏa thuận giữa các quốc gia nhằm chia sẻ quyền lợi về thuế. Với DTTs, một công ty hay cá nhân sẽ không bị đánh thuế hai lần khi họ có trụ sở tại một quốc gia nhưng lại tạo ra thu nhập ở một quốc gia khác. |
Mỹ Hạnh - Song Nguyễn
-
"An toàn lao động là quan tâm hàng đầu của chúng tôi!"
-
Tin tức kinh tế ngày 28/3: Gần 74.000 doanh nghiệp rút khỏi thị trường trong quý I
-
Phê duyệt 14 ngân hàng quan trọng nhất hệ thống năm 2024
-
Đề xuất Quốc hội cho phép thi hành Luật Đất đai từ ngày 1/7/2024
-
Nhà báo Nguyễn Văn Minh được bổ nhiệm làm Tổng Biên tập Báo Công Thương