Các vụ vỡ nợ bằng đồng USD của Trung Quốc ngày càng tăng cao

17:39 | 23/09/2020

158 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Các khoản vỡ nợ trái phiếu đô la Mỹ của các công ty Trung Quốc đã tăng gấp 3 lần lên 12 tỷ USD trong năm nay, từ mức 4 tỷ USD trong năm 2019.
Các vụ vỡ nợ bằng đồng USD của Trung Quốc ngày càng tăng cao - 1
Theo dữ liệu từ công ty tài chính Natixis của Pháp, các khoản nợ trái phiếu bằng đô la Mỹ của các công ty Trung Quốc đã tăng gấp ba lần

Các vụ vỡ nợ của các công ty Trung Quốc đối với khoản nợ bằng USD đã tăng đáng kể trong năm nay do đại dịch Covid-19, giá dầu sụt giảm và quan hệ Mỹ - Trung xấu đi đã làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh và giảm khả năng trả nợ của họ.

Những bất lợi này đã làm giảm niềm tin thị trường, thiếu hụt thanh khoản bằng đồng USD và hạn chế khả năng vay USD của một số công ty để trả khoản nợ hiện có.

Theo dữ liệu từ công ty tài chính Natixis của Pháp, các khoản nợ trái phiếu bằng USD của các công ty Trung Quốc đã tăng gấp ba lần lên 12 tỷ USD trong năm nay từ mức 4 tỷ USD của cả năm ngoái.

Khi các ngân hàng trung ương thế giới triển khai các chính sách nới lỏng tiền tệ quy mô lớn, thị trường trái phiếu doanh nghiệp châu Á đang ổn định trở lại. Các nhà đầu tư vào đầu năm nay đã bán phá giá trái phiếu bằng USD với khối lượng lớn vì sự siết chặt tài chính bằng đồng USD tạo ra thách thức với các nghĩa vụ thanh toán.

Và trong bối cảnh quan hệ Mỹ - Trung xấu đi nhanh chóng và trái phiếu USD đáo hạn vào năm tới, tình trạng vỡ nợ trái phiếu có thể tăng lên, Zhang Guo, giám đốc điều hành tại China Chengxin (châu Á - Thái Bình Dương), cho biết.

Theo dữ liệu từ Refinitiv, các công ty Trung Quốc nắm giữ số trái phiếu đô la Mỹ trị giá 101,8 tỷ USD sẽ đáo hạn trong năm nay. Con số này sẽ tăng 10% vào năm 2021 và tăng thêm 19% vào năm 2022.

Zhang cho biết: “Khối lượng nợ USD không trả được của các công ty Trung Quốc đang tăng chủ yếu là do các yếu tố cơ bản của công ty và gây nên áp lực lên thanh khoản nội bộ”.

“Chúng ta cần xem xét các yếu tố kinh tế vĩ mô vì đại dịch ở nước ngoài vẫn chưa được kiểm soát, trong khi căng thẳng Mỹ - Trung cũng sẽ ảnh hưởng đến khoản nợ đô la Mỹ của Trung Quốc”, ông Zhang nói thêm.

Paul Au, người đứng đầu bộ phận thu nhập cố định tại China Merchants Bank International, lạc quan hơn về sự phát triển của thị trường trái phiếu USD của Trung Quốc, bất chấp rủi ro Washington có thể trừng phạt một số ngân hàng Trung Quốc, làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu USD cho các công ty Trung Quốc.

Nền kinh tế Trung Quốc đã phục hồi nhanh hơn Mỹ hoặc châu Âu, vì vậy các nhà đầu tư sẽ tiếp tục mua trái phiếu an toàn do các công ty tài chính hàng đầu của Trung Quốc phát hành, Au nói.

“Các công ty đầu tư và quản lý quỹ của Mỹ có văn phòng chi nhánh ở Châu Âu, Hồng Kông và Singapore không cần sự chấp thuận từ trụ sở chính để đưa ra quyết định đầu tư. Trong thế giới đầu tư, họ đầu tư vào bất kỳ nơi nào có thể mang lại lợi nhuận”, ông nói.

Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc trước đó đã nới lỏng các quy định về nợ bằng USD vào tháng 3 để giải phóng khoản vay bằng USD giá rẻ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch. Điều này xảy ra sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ bơm thanh khoản lớn vào hệ thống ngân hàng.

Trong khi đó, Gary Ng, nhà kinh tế châu Á - Thái Bình Dương tại Ngân hàng Natixis cho rằng, các nhà phát hành trái phiếu USD của Trung Quốc trong lĩnh vực công nghệ và bán dẫn có thể bị áp lực nhiều hơn do chiến tranh thương mại làm gián đoạn chuỗi cung ứng của họ. Các công ty này có mức độ tiếp xúc với thị trường nước ngoài cao nhất, với doanh thu nước ngoài lần lượt là 49% và 37% doanh thu.

Tỷ lệ vỡ nợ đối với các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc trên thị trường nợ USD đã lần đầu tiên cao hơn tỷ lệ của các doanh nghiệp tư nhân, Ng nói.

Doanh nghiệp nhà nước Tewoo Group trước đó đã trở thành công ty phá sản lớn nhất đối với trái phiếu USD trong lịch sử Trung Quốc khi phải ra tòa để tái cơ cấu có kiểm soát vào tháng 7, với lượng trái phiếu USD trị giá 1,75 tỷ USD.

Theo Ng, các nhà đầu tư hiện nay vẫn đang đánh giá rủi ro tương đối cao đối với [nợ doanh nghiệp] của Trung Quốc, mặc dù nó đã được cải thiện nhiều so với mức tháng 3.

Theo Dân trí

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 84,000
AVPL/SJC HCM 82,000 84,000
AVPL/SJC ĐN 82,000 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 73,450 74,400
Nguyên liệu 999 - HN 73,350 74,300
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 84,000
Cập nhật: 25/04/2024 01:02
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 84.300
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 84.300
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 84.300
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 82.500 84.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 25/04/2024 01:02
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,320 7,525
Trang sức 99.9 7,310 7,515
NL 99.99 7,315
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,295
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,385 7,555
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,385 7,555
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,385 7,555
Miếng SJC Thái Bình 8,240 8,440
Miếng SJC Nghệ An 8,240 8,440
Miếng SJC Hà Nội 8,240 8,440
Cập nhật: 25/04/2024 01:02
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,500 84,500
SJC 5c 82,500 84,520
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,500 84,530
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 74,900
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 75,000
Nữ Trang 99.99% 72,900 74,100
Nữ Trang 99% 71,366 73,366
Nữ Trang 68% 48,043 50,543
Nữ Trang 41.7% 28,553 31,053
Cập nhật: 25/04/2024 01:02

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,099.42 16,262.04 16,783.75
CAD 18,096.99 18,279.79 18,866.22
CHF 27,081.15 27,354.69 28,232.26
CNY 3,433.36 3,468.04 3,579.84
DKK - 3,572.53 3,709.33
EUR 26,449.58 26,716.75 27,899.85
GBP 30,768.34 31,079.13 32,076.18
HKD 3,160.05 3,191.97 3,294.37
INR - 304.10 316.25
JPY 159.03 160.63 168.31
KRW 16.01 17.78 19.40
KWD - 82,264.83 85,553.65
MYR - 5,261.46 5,376.21
NOK - 2,279.06 2,375.82
RUB - 261.17 289.12
SAR - 6,753.41 7,023.40
SEK - 2,294.19 2,391.60
SGD 18,200.78 18,384.62 18,974.42
THB 606.76 674.18 700.00
USD 25,147.00 25,177.00 25,487.00
Cập nhật: 25/04/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,185 16,205 16,805
CAD 18,224 18,234 18,934
CHF 27,303 27,323 28,273
CNY - 3,437 3,577
DKK - 3,555 3,725
EUR #26,320 26,530 27,820
GBP 31,085 31,095 32,265
HKD 3,115 3,125 3,320
JPY 159.63 159.78 169.33
KRW 16.26 16.46 20.26
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,233 2,353
NZD 14,812 14,822 15,402
SEK - 2,259 2,394
SGD 18,102 18,112 18,912
THB 632.69 672.69 700.69
USD #25,135 25,135 25,487
Cập nhật: 25/04/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,185.00 25,187.00 25,487.00
EUR 26,723.00 26,830.00 28,048.00
GBP 31,041.00 31,228.00 3,224.00
HKD 3,184.00 3,197.00 3,304.00
CHF 27,391.00 27,501.00 28,375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16,226.00 16,291.00 16,803.00
SGD 18,366.00 18,440.00 19,000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18,295.00 18,368.00 18,925.00
NZD 14,879.00 15,393.00
KRW 17.79 19.46
Cập nhật: 25/04/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25195 25195 25487
AUD 16325 16375 16880
CAD 18364 18414 18869
CHF 27519 27569 28131
CNY 0 3469.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26892 26942 27645
GBP 31326 31376 32034
HKD 0 3140 0
JPY 161.93 162.43 166.97
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0346 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14885 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18459 18509 19066
THB 0 646 0
TWD 0 779 0
XAU 8230000 8230000 8400000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 25/04/2024 01:02