Trang phục Việt thời Lý - tiền đề của “chuẩn mực thời trang Việt”

07:00 | 08/02/2013

20,710 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Cùng với sự lớn mạnh về chính trị và kinh tế, các vương triều Lý, Trần, Hồ đã có sự phát triển rực rỡ về văn hóa. Đây là giai đoạn thịnh đạt của nền văn hóa Đại Việt. Như Lê Quý Đôn đã nhận định: “Nước Nam ở hai triều Lý, Trần nổi tiếng là văn minh”. Từ thời Lý, trang phục của người Việt Nam đã được hình thành với những bản sắc riêng rõ nét - được coi là tiền đề lớn cho những bước phát triển sau này…

Các vương triều Lý, Trần, Hồ được coi là giai đoạn phục hưng của nền văn hóa Việt cổ bản địa (văn minh Văn Lang - Âu Lạc) trên nền tảng khôi phục độc lập dân tộc và giữ vững chủ quyền quốc gia qua những cuộc kháng chiến của Đại Việt chống Tống, Nguyên thắng lợi. Vị thế độc lập về chính trị - dẫn đến ý thức độc lập về văn hóa “Nam Bắc đều chủ nước mình, không phải noi nhau” (lời Trần Nghệ Tông). Chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc, ý thức tìm về cội nguồn đã thấm đậm trong môi trường văn hóa thời Lý -Trần. Cũng như xã hội, văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần - Hồ đã pha trộn và hỗn dung giữa những yếu tố Nam Á và Đông Á trong một vị thế cân bằng văn hóa. Tất cả những điều này được thể hiện khá rõ nét qua những tiêu chuẩn về trang phục trong thời kỳ đó.

Vua thời Lý chủ trương dùng gấm vóc nhà Đại Việt

Triều đại nhà Lý (1009-1225) những quy định về phục trang đã được đặt ra một cách cụ thể. Năm 1029, Vua Lý Thái Tông định quy chế mũ áo của các công hầu và các quan văn võ. Đến năm 1040, nhà vua chủ trương dùng gấm vóc trong nước để may lễ phục mà không dùng gấm vóc của nhà Tống. Số gấm vóc của nhà Tống còn lại trong kho được phát hết ra may áo cho các quan, từ ngũ phẩm trở lên là áo bào bằng gấm, từ cửu phẩm trở lên là áo bào bằng vóc. Điều này biểu thị chí tự cường, tự lập của dân tộc đã khá cao.

Áo đổi vai thời Lý, Áo năm thân, Áo trắng vạt

Đến năm 1059, Vua Lý Thánh Tông định triều phục cho các quan. Vào chầu vua, các quan phải đi tất, đi hia và đội mũ phác đầu. Mũ phác đầu có 4 góc, 4 tai, phía sau có 2 tai ngang (tức mũ cánh chuồn), mặc áo bào tía, cầm hốt ngà, thắt đai da. Lệ đội mũ phác đầu, đi hia bắt đầu có từ thời này.

Thời đó, các vũ nữ được quy định kiểu tóc búi cao lên đỉnh đầu, trên trán có một điểm trang trí, mái tóc điểm những bông hoa, tay đeo vòng, cổ đeo những chuỗi hạt, mặc váy ngắn có nhiều nếp. Trang phục của nhạc công cũng khá độc đáo với mũ chùm kín tóc, phía trên mũ được làm cao lên và trang trí các diềm uốn lượn.

Người thời Lý buông tóc dài, đội khăn quấn

Thời Lý có lệnh cấm người dân mặc áo màu vàng (giai đoạn năm 1182), con gái trong dân gian không được bắt chước kiểu búi tóc như cung nhân. Người Việt thời Lý thường bỏ tóc dài và đội khăn quấn. Người trung niên và có tuổi búi tóc ở phía sau gọi là búi tóc củ hành, sau đó quấn khăn bao quanh ra ngoài nhiều vòng.

Người lao động quấn khăn buộc đầu rìu hoặc buộc lệch ở thái dương, cắt tóc ngắn, hoặc buông xõa hai vai hoặc quấn vòng quanh cổ. Có nhiều loại khăn quấn thời đó: Khăn ngắn dài khoảng một thước ta (0,6m), quấn vòng từ sau gáy choàng qua búi tóc hoặc qua tóc tới trước trán phía trên chân tóc, rồi buộc thắt nút, để hai đuôi khăn vểnh lên (kiểu quấn khăn đầu rìu); Khăn quấn dài là lối quấn khăn truyền thống của người Việt khi làm việc gì trang trọng. Kiểu quấn khăn này có bỏ tua ở hai đầu khăn dùng cho nội quan, ví dụ thái giám khăn bằng gấm; cấp thượng phẩm sáu tua màu tía xen màu biếc, trung phẩm có tua màu nhạt hơn, hạ phẩm tua màu đen có kim tuyến. Khăn quấn dài là loại khăn của tầng lớp quý tộc, thường bằng gấm vóc có màu sẫm; người trung lưu thì dùng lụa là; người lao động thì dùng vải quyến đề làm khăn. Loại khăn này khi nho học phát triển ở thời Hậu Lê từ thế kỷ XV, do ảnh hưởng Nho giáo mới chú ý đến quấn chéo khăn, lộ hình chữ nhân.

Khăn vấn tóc có khổ rộng khoảng một gang tay (20cm), chiều dài độ một sải tay. Chất liệu khăn thường là vải và nhung có màu sắc đậm như đen, tím sẫm, đỏ sẫm, nâu non, nâu già nhưng chủ yếu là đen.

Phân biệt tầng lớp xã hội bằng… chất liệu

Trang phục phụ nữ người Việt cổ bao gồm khăn đội đầu (khăn vuông), khăn vấn tóc, yếm, thắt lưng, áo cánh, váy, áo tứ thân, áo năm thân. Chiếc yếm của phụ nữ là một miếng vải hình vuông khoét một góc tạo thành cổ, phần vải còn lại tạo thành chiếc yếm ở trước ngực làm đồ lót mặc sát người của phụ nữ Việt Nam. Yếm thường được may bằng lụa hoặc vải nõn sợi nhỏ hoặc vải quyến đủ các màu sắc trừ màu đen. Thắt lưng trong trang phục phụ nữ thời Lý thường được dệt bằng lụa sồi có độ dài thắt quanh người hai vòng, mà vẫn còn dài để có thể thắt nút giọt lệ, buông rủ dải thắt lưng xuống phía trước. Độ dài thắt lưng khoảng 1,5-2m, rộng chừng 15-20cm. Hai đầu thắt lưng người ta chừa khoảng sợi dọc (còn gọi là sợi canh) không dệt, để tết tua cho đẹp. Thắt lưng được nhuộm theo màu cầu vồng năm sắc sặc sỡ. Phụ nữ thường thắt hai thắt lưng, làm lộ ra nhiều màu sắc đẹp thêm cho trang phục.

Một phác thảo phục trang Việt thời Lý

Váy phụ nữ Việt thời đó gồm ba phần: cạp váy, gấu váy (còn gọi là lai váy) và thân váy. Loại váy dài thường dùng trong lễ phục thì buông trùng tới mu bàn chân. Người giàu mặc váy bằng lụa, lĩnh, hoặc loại lụa dệt dày láng bóng.

Lễ phục của nữ giới thời Lý thường là áo dài màu đen hoặc màu nâu sẫm mặc phủ ra ngoài áo cánh lửng. Có ba loại áo dài: Áo dài tứ thân có nguồn gốc truyền thống lâu đời, dùng phổ biến ở mọi tầng lớp từ kinh đô đến nông thôn. Áo dài tứ thân cấu trúc như áo cánh, chỉ khác là 4 vạt đều được kéo dài. Thân trước có hai vạt mở giữa, khi mặc thắt hai vạt trước tết nút và phần vạt còn lại bỏ thõng xuống dưới. Khi cần làm việc có thể bắt chéo vạt buộc thắt vòng ra phía sau lưng; Áo dài năm thân có xuất xứ từ phương Bắc, được may ghép bằng năm thân vải. Áo cũng có nguồn gốc truyền thống lâu đời dùng cho cả nữ giới lẫn nam giới nhưng khác nhau ở cổ áo và cách sử dụng.

Áo tràng vạt của nữ có cổ áo rộng giao nhau, tay hẹp, đây là đặc điểm riêng của áo dài Việt Nam. Áo tràng vạt, trong Phật giáo thường mặc đi lễ chùa, màu áo đen hoặc nâu.

Áo dài nam giới ngày ấy có loại áo dài năm thân mang kiểu cách tương tự như của áo dài nữ giới nhưng khác là phần cổ dựng cao thành gấp đôi cổ áo nữ và không hở cổ, áo này có phủ lá sen lớn lót phía sau vòng ra phía trước, tay áo nam giới rộng hơn. Tầng lớp quý tộc mặc áo dài năm thân bằng chất liệu cao cấp như: gấm, vóc, đoạn sa, thường mặc kép với một áo lót bằng lụa màu mỏng. Cũng có một số áo năm thân dùng trong giới quý tộc làm bằng các loại vóc, the, các sợi dệt trên vải dày hơn để khi mặc áo kép càng lộ rõ hoa văn của áo phía trong tạo sự duyên ẩn, không phô trương.

Áo năm thân của tầng lớp bình dân thường là áo the đen mặc kép với áo vải quyến màu trắng (áo lương). Áo tràng vạt dành cho nam giới vừa dài vừa rộng nên còn được gọi là áo thụng, đây là áo phổ biến triều Lý dùng cho các tăng nhân Phật giáo. Đặc điểm là tay áo dài quá cả bàn tay, độ thụng lớn tới hàng thước ta. Áo này được dùng trong các nghi lễ tế thần ở đình chùa, lễ hội; áo thường màu nâu, đen, xanh chàm (loại áo này có một dây buộc thân thứ năm ở phía trong).

Cùng với những hoa văn, họa tiết trang trí trên trang phục, những hoa văn, họa tiết thời Lý ở các hiện vật khác không chỉ là yếu tố trang trí nghệ thuật mà còn có nhiều ý nghĩa tượng trưng. Qua đó ta thấy, từ xa xưa, người Việt đã có những chuẩn mực thời trang mang bản sắc rất riêng, có ảnh hưởng sâu sắc đến tư duy phục trang của cả một dân tộc cho đến ngày nay.

Phú Duy