Tiết kiệm năng lượng: Vấn đề cấp bách

15:25 | 21/08/2014

1,211 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Sáng 21/8, tại trụ sở Tập đoàn Điện lực Việt Nam, dưới sự chỉ đạo của Bộ Công Thương, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam đã phối hợp với Tổng cục Năng lượng, Tập đoàn Điện lực Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Tiết kiệm năng lượng - Những vấn đề cấp bách”.

Toàn cảnh hội thảo.

Tham dự hội thảo có đồng chí Nguyễn Văn Thạo, Trợ lý Chủ tịch nước; đồng chí Lê Quốc Lý, Phó giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cùng đại diện lãnh đạo các Bộ, ngành Trung ương và địa phương.

Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam Trần Viết Ngãi chủ trì hội thảo. Các ông Nguyễn Khắc Thọ, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Năng lượng (Bộ Công Thương); Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam Nguyễn Quốc Khánh, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam Nguyễn Tấn Lộc và Phó Tổng giám đốc Tập đoàn công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam Nguyễn Anh Tuấn cùng tham gia điều hành hội thảo.

Phát biểu đề dẫn, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam Trần Viết Ngãi nhấn mạnh: Quá trình đổi mới đất nước đã ghi nhận sự phát triển mạnh mẽ của ngành năng lượng Việt Nam, đã đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn đổi mới, đảm bảo an ninh năng lượng Quốc gia. Cụ thể: Điện đã đưa về 98% số xã, với trên 96% hộ dân cả nước, sản lượng điện phát ra hàng năm là trên 100 tỉ kWh, đưa sản lượng từ 300-400 lên 1.500 kWh /người/năm. Với ngành than, chúng ta đã đạt sản lượng 40 triệu tấn/năm, đáp ứng đủ nhu cầu cho ngành điện và các ngành kinh tế khác. Đặc biệt, ngành dầu khí đã đạt 25 tấn dầu quy đổi (dầu là 16 triệu tấn/năm, khí là 9 tỉ m3/năm), cung cấp khoảng 30% lượng xăng dầu cho nền kinh tế, hàng năm đóng góp từ 25 – 30% vào thu ngân sách nhà nước.

Để đạt được những kết quả như trên, Nhà nước cùng các Tập đoàn đã đầu tư hàng trăm tỉ USD để phát triển các dự án, cơ sở hạ tầng phát triển năng lượng.

Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam Trần Viết Ngãi.

Trong bài phát biểu đề dẫn hội thảo, ông Trần Viết Ngãi cũng chỉ ra rằng: Vấn đề sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã được Việt Nam xem là quốc sách. Và điều này đã được cụ thể hoá bằng rất nhiều các văn bản pháp lý quan trọng như Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050; Luật Khoáng sản các năm 1996, 2005 và 2010; Luật Điện lực; Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; Chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2025; Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2006 – 2015...

Tuy nhiên, mức độ tiêu hao năng lượng của cả nước lại đang rất lãng phí, và nếu tính bình quân trên 1 đơn vị sản phẩm thì cao hơn gấp 5 – 6 lần so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Điều này không chỉ làm giảm hiệu quả kinh tế mà còn tạo lên áp lực phát triển rất lớn đối với ngành năng lượng. Chính vì vậy, tiết kiệm năng lượng đã và đang trở thành vấn đề cấp bách không chỉ với một ngành, một lĩnh vực mà là của cả nền kinh tế.

Tới dự và trình bày tham luận tại hội thảo, đại diện các Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam và Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đều thống nhất cho rằng, năng lượng chính là yếu tố sống còn, đảm bảo sự phát triển bền vững đối với mọi nền kinh tế, là động lực phát triển đất nước. Và thực tế, trong những năm qua, để đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng cho đất nước, các Tập đoàn đã có rất nhiều nỗ lực, cố gắng trong việc khai thác, tìm kiếm và phát triển các nguồn năng lượng mới.

Các tham luận của 3 Tập đoàn – 3 trụ cột của ngành năng lượng Việt Nam – cũng cho thấy: Tăng trưởng kinh tế liên tục với tốc độ khá cao của Việt Nam giúp cải thiện mức sống của người dân nhưng đồng thời cũng làm tăng nhu cầu sử dụng năng lượng. Dự báo nhu cầu điện của Quy hoạch Điện VII, tăng trưởng nhu cầu năng lượng của Việt Nam là 8,1-8,7% giai đoạn (2001-2020), trong đó năm 2010 trên 100 tỷ kWh, năm 2020 là 330-362 tỷ kWh, năm 2030 là 695-834 tỷ kWh. Nhu cầu than riêng cho ngành điện vào năm 2020 với công suất các nhà máy điện than là 36 nghìn MW để sản xuất 154,44 tỷ kWh, sẽ tiêu thụ 67,3 triệu tấn than. Dự báo đến năm 2030, công suất các nhà máy nhiệt điện than là 75.748 MW để sản xuất 391,98 tỷ kWh, tiêu thụ tới 171 triệu tấn than.

Phát biểu tham luận tại hội thảo, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam Nguyễn Quốc Khánh khẳng định: Năng lượng là một trong các ngành quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân và là động lực của quá trình phát triển đất nước. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng ta đã chỉ rõ: “Phát triển năng lượng phải đi trước một bước, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia”. Ở nước ta, trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ năng lượng đang gia tăng mạnh mẽ, kèm theo đó là thách thức to lớn về nguy cơ hủy hoại môi trường, nguồn tài nguyên năng lượng truyền thống ngày càng cạn kiệt thì vấn đề “Tiết kiệm năng lượng” có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cấp bách.

Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam Nguyễn Quốc Khánh.

Nhận thức được tầm quan trọng trong phát triển năng lượng cũng như tiết kiệm năng lượng, trong những năm qua, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam với vai trò là đầu tầu kinh tế của cả nước và là một trong những trụ cột của ngành năng lượng Việt Nam đã tích cực triển khai mạnh mẽ chiến lược phát triển hạ tầng năng lượng của ngành dầu khí, đồng thời chủ trương thực hiện các biện pháp tiết kiệm năng lượng trong các hoạt động dầu khí nhằm đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng cao cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và đảm bảo sử dụng hiệu quả tiết kiệm nguồn năng lượng quốc gia.

Và để thực hiện tốt vai trò là 1 trong 3 trụ cột của ngành năng lượng, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam kiến nghị Chính phủ/Bộ Công Thương sớm ban hành cơ chế kinh doanh và chính sách giá khí bởi kinh nghiệm triển khai các dự án khí trong thời gian qua cho thấy, việc thống nhất giá khí thường mất nhiều thời gian, kéo dài và là nhân tố then chốt. Với việc nguồn cung khí từ các mỏ hiện có đang dần bị suy giảm, sự chênh lệch về giá khí đầu vào từ các nguồn khí khác nhau ngày một mở rộng. Chính vì vậy, để có thể đảm bảo nguồn cung cấp khí phục vụ cho nhu cầu năng lượng của quốc gia, trong những năm tới Chính phủ cần thiết phải có những chính sách nhằm đột phá, giải tỏa các vướng mắc trên, đảm bảo lợi nhuận khuyến khích các nhà thầu đầu tư vào các dự án khí thượng nguồn/trung nguồn, hỗ trợ Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam như là một bên trong quá trình triển khai các dự án khí/nhập khẩu khí LNG.

Kiến nghị Chính phủ xem xét, giao cho Tập đoàn Dầu Khí Việt Nam chủ trì thẩm định các báo cáo đánh giá trữ lượng, kế hoạch phát triển mỏ (FDP) với sự tham gia của các Bộ/Ngành có liên quan và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Chủ trì thẩm định các báo cáo kế hoạch khai thác sớm (EDP), Kế hoạch thu dọn mỏ với sự tham gia của các Bộ/Ngành có liên quan và báo cáo Bộ Công Thương phê duyệt; Phê duyệt thay đổi dự toán ở mức dưới 20% so với tổng mức đầu tư đã được phê duyệt trong FDP/EDP.

Tập đoàn cũng kiến nghị Chính phủ xem xét, ban hành các chính sách ưu đãi về thuế cho hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí tại những vùng nước sâu, xa bờ, thăm dò - khai thác khí thiên nhiên; Ưu đãi thuế cho các nhà máy lọc/hoá dầu nằm trong quy hoạch, nhằm bảo đảm khả năng cạnh tranh với sản phẩm lọc/hoá dầu nhập khẩu.

Ngoài ra, để ngành năng lượng từng bước phát triển theo hướng thị trường cạnh tranh, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam kiến nghị Chính phủ xem xét, cân nhắc lộ trình điều chỉnh giá điện từng bước tiếp cận với giá thị trường.

Thanh Ngọc

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,800 84,000
AVPL/SJC HCM 81,800 84,000
AVPL/SJC ĐN 81,800 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 73,250 74,200
Nguyên liệu 999 - HN 73,150 74,100
AVPL/SJC Cần Thơ 81,800 84,000
Cập nhật: 26/04/2024 03:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 84.300
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 84.300
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 84.300
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 82.000 84.300
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 26/04/2024 03:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,305 7,510
Trang sức 99.9 7,295 7,500
NL 99.99 7,300
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,280
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,370 7,540
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,370 7,540
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,370 7,540
Miếng SJC Thái Bình 8,230 8,430
Miếng SJC Nghệ An 8,230 8,430
Miếng SJC Hà Nội 8,230 8,430
Cập nhật: 26/04/2024 03:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 84,300
SJC 5c 82,000 84,320
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 84,330
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 74,800
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 74,900
Nữ Trang 99.99% 72,900 74,000
Nữ Trang 99% 71,267 73,267
Nữ Trang 68% 47,975 50,475
Nữ Trang 41.7% 28,511 31,011
Cập nhật: 26/04/2024 03:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,132.31 16,295.26 16,818.06
CAD 18,084.86 18,267.53 18,853.61
CHF 27,078.76 27,352.28 28,229.82
CNY 3,428.68 3,463.32 3,574.97
DKK - 3,581.24 3,718.38
EUR 26,509.78 26,777.56 27,963.40
GBP 30,937.15 31,249.64 32,252.22
HKD 3,157.93 3,189.82 3,292.16
INR - 303.56 315.69
JPY 158.10 159.69 167.33
KRW 15.97 17.75 19.36
KWD - 82,247.73 85,536.02
MYR - 5,254.14 5,368.74
NOK - 2,269.41 2,365.76
RUB - 261.89 289.91
SAR - 6,745.43 7,015.11
SEK - 2,290.51 2,387.76
SGD 18,188.62 18,372.35 18,961.78
THB 605.39 672.66 698.42
USD 25,137.00 25,167.00 25,477.00
Cập nhật: 26/04/2024 03:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,201 16,221 16,821
CAD 18,244 18,254 18,954
CHF 27,268 27,288 28,238
CNY - 3,431 3,571
DKK - 3,557 3,727
EUR #26,339 26,549 27,839
GBP 31,162 31,172 32,342
HKD 3,108 3,118 3,313
JPY 158.68 158.83 168.38
KRW 16.27 16.47 20.27
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,231 2,351
NZD 14,817 14,827 15,407
SEK - 2,253 2,388
SGD 18,086 18,096 18,896
THB 631.4 671.4 699.4
USD #25,070 25,070 25,477
Cập nhật: 26/04/2024 03:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,155.00 25,475.00
EUR 26,606.00 26,713.00 27,894.00
GBP 30,936.00 31,123.00 32,079.00
HKD 3,170.00 3,183.00 3,285.00
CHF 27,180.00 27,289.00 28,124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16,185.00 16,250.30 16,742.00
SGD 18,268.00 18,341.00 18,877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18,163.00 18,236.00 18,767.00
NZD 14,805.00 15,299.00
KRW 17.62 19.25
Cập nhật: 26/04/2024 03:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25155 25155 25477
AUD 16349 16399 16909
CAD 18342 18392 18848
CHF 27509 27559 28112
CNY 0 3463.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26943 26993 27703
GBP 31492 31542 32200
HKD 0 3140 0
JPY 160.89 161.39 165.9
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0381 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14917 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18446 18496 19057
THB 0 644.5 0
TWD 0 779 0
XAU 8250000 8250000 8420000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 03:45