Thách thức trong phát triển nghề đánh bắt hải sản

08:00 | 25/02/2018

2,250 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Trước khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã có quan điểm chỉ đạo về định hướng chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020.

Định hướng nêu rõ: Nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn. Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53-55% tổng GDP của cả nước. Tuy vậy, đánh giá một cách tổng quát, xét cả về mặt chủ quan và khách quan, thực tế hiện nay cho thấy trong việc khai thác lợi thế từ biển nói chúng và đánh bắt, nuôi trồng thủy - hải sản nói riêng còn yếu kém và phải đối mặt với nhiều áp lực.

thach thuc trong phat trien nghe danh bat hai san
Hải sản đánh bắt được ngư dân bán tại chợ cá Quảng Ninh

Năng suất khai thác có xu hướng giảm

Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia có chỉ số cao nhất về chiều dài bờ biển so với diện tích lãnh thổ. Bình quân cứ 100km2 đất liền có 1km bờ biển, cao gấp 6 lần chỉ số trung bình của thế giới. Đối với một nước có bờ biển dài như nước ta, khai thác thủy - hải sản biển được coi là một ngành có nhiều lợi thế và cần phải được phát triển mạnh trong thời gian sắp tới. Tính đến thời điểm này đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về tiềm năng cũng như đánh giá về thực trạng khai thác nguồn lợi biển của Việt Nam. Tất cả đều có chung một nhận định về sự phong phú và đa dạng của các nguồn lợi từ biển.

Với số liệu kinh tế thu thập được từ Tổng cục Thống kê, sản lượng cá biển khai thác được trong thời gian qua có sự gia tăng nhờ quy mô khai thác. Tuy vậy, năng suất khai thác lại có xu hướng giảm dần ở tất cả các vùng. Phân tích số liệu của 29 tỉnh, thành phố có biển trong thời gian 2012-2014 cho thấy, cứ 1 tàu có công suất trên 90CV tăng thêm thì sản lượng cá khai thác trong năm của tỉnh tăng thêm 20 tấn. Ngoài ra, sản lượng cá tỷ lệ thuận với mức độ biến động của nhiệt độ, mức độ biến động của áp lực mực nước biển và bức xạ mặt trời, trong khi tỷ lệ nghịch với lượng mưa trung bình.

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam cho biết, mặc dù có số lượng tàu tương đối lớn, nhưng hệ thống tàu thuyền của ngư dân được đánh giá còn rất yếu kém. Có đến 99% tàu cá đóng từ vật liệu gỗ, 85-90% tàu cá sử dụng động cơ từ các thiết bị cũ hoặc thiết bị giao thông đường bộ, trang thiết bị bảo quản thô sơ, số tàu công suất thấp (dưới 90CV) khai thác ven bờ còn lớn, nguồn lợi hải sản ven bờ có dấu hiệu suy giảm trong khi sản lượng khai thác xa bờ cũng đã xấp xỉ ngưỡng khai thác bền vững theo dự báo.

Bên cạnh đó, diện tích bãi biển, vùng triều giảm mạnh do xói lở từ lũ lụt, tố lốc và khai thác cát trái phép ngày càng nghiêm trọng cản trở hoạt động đánh bắt. Ngoài ra, quá trình phát triển, đô thị hóa, xây dựng các công trình ven biển và các đầm nuôi trồng thủy hải sản cũng đã góp phần làm ô nhiễm, hủy hoại môi trường sống của các loài hải sản như rừng ngập mặn, bãi cỏ biển, rạn san hô nơi thường là bãi đẻ và bãi sinh trưởng của cá biển.

Đối mặt với nhiều thách thức

Đề cập về những giải pháp nâng cao khai thác lợi thế từ biển, nhóm các nhà nghiên cứu Hoàng Khắc Lịch, Dương Cẩm Tú - Trường Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng, đánh bắt hải sản là nghề biển truyền thống có thế mạnh của nước ta, là lực lượng nòng cốt trong việc thực hiện 3 mục tiêu chiến lược phát triển ngành thủy sản Việt Nam. Đó là khai thác tiềm năng nguồn lợi hải sản tạo sản phẩm cung cấp cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tạo việc làm, thu nhập, cải thiện đời sống ngư dân các tỉnh ven biển và đảm bảo sự hiện diện, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên các vùng biển.

thach thuc trong phat trien nghe danh bat hai san
Ngư dân Khánh Hòa khai thác cá ngừ

Tuy vậy, quy mô kinh tế biển và vùng ven biển nước ta vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, giá trị tổng sản phẩm hằng năm còn nhỏ bé, chỉ bằng 1/20 của Trung Quốc, 1/94 của Nhật Bản, 1/7 của Hàn Quốc và 1/260 kinh tế biển của thế giới. Nên cần thiết phải có một nghiên cứu cung cấp các phân tích và đánh giá một cách trực quan sự biến động về mặt số liệu, để chỉ ra những mối liên hệ với sản lượng cá biển khai thác được ở các vùng biển Việt Nam.

Đặc biệt, biến đổi khí hậu và thay đổi thời tiết sẽ làm ảnh hưởng đến các hệ sinh thái biển, biến động chủng loại quần đàn và di cư cá biển, do đó có khả năng sẽ làm thay đổi các bãi cá và ngư trường truyền thống. Cụ thể, nhiệt độ nhiều vùng nước có xu hướng ngày càng tăng cao có thể khiến cá trong vùng này có một kích thước cơ thể nhỏ hơn, nhỏ hơn ở sự trưởng thành ban đầu và có tỷ lệ tử vong cao hơn.

Nguyên nhân đáng kể là do thiếu oxy và nhiệt độ ấm dễ phát sinh mầm mống bệnh gây hại. Một số loài di chuyển tìm vùng nước mới phù hợp để sinh sống và phát triển sẽ làm ngư trường thay đổi, nguồn lợi thủy sản bị phân tán khiến cho năng suất khai thác giảm xuống. Bên cạnh đó, các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, tố lốc sẽ làm giảm năng suất lao động của ngư dân, gây thiệt hại tàu bè và do đó, tác động không nhỏ đến sản lượng.

Từ năm 1997, thực hiện Chương trình đánh bắt cá xa bờ, Nhà nước đã đầu tư 1.300 tỉ đồng đóng 1.292 chiếc tàu đánh bắt xa bờ, nhưng cho đến nay chương trình này bị đánh giá là kém hiệu quả. Vấn đề suy giảm đa dạng sinh học khiến cho những loài cá có giá trị kinh tế cao ngày càng trở nên ít ỏi, nguyên nhân một phần do bộ phận nhỏ ngư dân sử dụng những hình thức khai thác hủy diệt như chất nổ, chất độc, xung điện, lưới mắt nhỏ hoặc các nghề có hại như te đẩy, lưới đăng, đáy càng làm cho nguồn lợi trở nên cạn kiệt và khó phục hồi hơn. Ngoài ra các hoạt động đô thị hóa, xây dựng các công trình ven biển, xói lở từ lũ lụt, tố lốc cũng khiến cho ô nhiễm vùng biển ngày càng nặng nề, đã và đang là thách thức rất lớn đến phát triển nghề cá trên vùng biển Việt Nam hiện nay và trong tương lai.

Nếu như năm 2004, tổng giá trị xuất khẩu thủy sản là 2,35 tỉ USD, chiếm khoảng 1/10 tổng giá trị xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đến năm 2016, con số này lên tới 7 tỉ USD, tổng sản lượng thủy sản đạt hơn 6,7 triệu tấn, so với năm 2015, tổng sản lượng tăng 2,5%, kim ngạch xuất khẩu tăng tới 6,5%.

Văn Hào