Tăng liều lượng xử lý hai "điểm nghẽn" lớn của nền kinh tế

14:47 | 07/08/2012

853 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Hiện tăng trưởng tín dụng và tồn kho đang là hai điểm nghẽn lớn tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, đòi hỏi phải xử lý tích cực hơn nữa.

Ảnh minh họa

Bắt mạch 2 điểm nghẽn lớn

Điểm nghẽn thứ nhất là tăng trưởng tín dụng.  So với cuối năm trước, dư nợ tín dụng đến cuối tháng 6 vẫn còn giảm, đến 25/7 chỉ tăng rất thấp (0,57%). Việc dư nợ tính dụng giảm trong thời gian dài và tính chung 7 tháng tăng rất thấp là hiện tượng hiếm thấy của cùng kỳ trong nhiều năm qua. Đây cũng là tín hiệu cảnh báo khả năng cả năm nay tăng trưởng tín dụng sẽ thấp xa so với mục tiêu định hướng 15 - 17% từ đầu năm và thấp rất xa so với tốc độ tăng của nhiều năm trước đây (2011 tăng 12%, 2010 tăng 27,7%, 2009 tăng 37,7%, 2008 tăng 30,0%, 2007 tăng 51,4%...).

Đáng chú ý là tăng trưởng tín dụng thấp trong khi tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán lại ở mức khá (tính đến 20/7 tăng 6,56%), chứng tỏ tiền tệ ra lưu thông ít, vẫn còn chạy loanh quanh ở hệ thống ngân hàng thương mại.

Các chuyên gia đã đưa ra hai nguyên nhân chủ yếu lý giải cho tình trạng trên. Thứ nhất là khách hàng hoạt động tốt không thực sự muốn vay với lãi suất mặc dù đã giảm xuống nhưng vẫn cao, có tâm lý chờ lãi suất giảm xuống nữa mới vay. Thứ hai, những khách hàng rủi ro không được vay do không đáp ứng được các điều kiện vay và ngân hàng lo ngại nợ xấu gia tăng; nợ xấu trở thành “cục máu đông” gây ách tắc dòng chảy tín dụng.

Điểm nghẽn thứ hai là tồn kho. Mặc dù tốc độ tăng tồn kho sản phẩm ở một số ngành đã giảm xuống (như tốc độ tăng so với thời điểm cùng kỳ năm trước của sản phẩm công nghiệp chế biến chẳng hạn, đã giảm liên tục qua các thời điểm:  đến 1/3 tăng 34,9%,1/4 tăng 32,1%, 1/5 tăng 29,4%, 1/6 tăng 26%, 1/7 tăng 21%), nhưng vẫn còn khá cao. Tồn kho cao xảy ra ở hầu hết các sản phẩm, các ngành, từ lương thực, thực phẩm, đến sản phẩm công nghiệp, xây dựng, bất động sản, từ sản xuất đến thương mại, thậm chí cả vốn ở ngân hàng.

Tồn kho cao do nhiều nguyên nhân. Có nguyên nhân do đầu tư, sản xuất kinh doanh co lại, khiến cho nhu cầu đối với sản phẩm cũng co lại theo. Có nguyên nhân do thu nhập, sức mua có khả năng thanh toán của dân cư tăng thấp, thậm chí của một bộ phận dân cư bị sụt giảm do mất hoặc thiếu việc làm khi doanh nghiệp ngừng sản xuất, phá sản, giải thể. Có nguyên nhân do giá bán còn cao, bình quân 7 tháng năm nay vẫn còn tăng 11,2% so với cùng kỳ năm trước; nếu tốc độ tăng thu nhập thấp hơn con số đó thì chi tiêu sẽ thấp hơn. Đó là chưa kể còn có sự tác động của yếu tố tâm lý “tích cốc phòng cơ”, do tác động của lạm phát cao trong 2 năm trước, nay lại lo tăng trưởng kinh tế bị suy giảm, nên vẫn duy trì tâm lý này, thậm chí còn “thắt lưng buộc bụng” ở mức cao hơn, giảm lượng tiêu dùng, giảm chi tiêu.

Một số người trước đây có thể vay để đầu tư, chi tiêu, thì nay cũng sợ rủi ro nên không dám vay. Những người có thu nhập cũng có tâm lý chờ giảm giá nữa mới mua, mới chi tiêu. Ngân hàng cũng “co cụm” do lo ngại nợ xấu tăng; đòi hỏi người vay phải thế chấp, nhưng không phải tài sản nào cũng thế chấp được, nhất là sản phẩm, hàng hoá tồn kho; ngay cả bất động sản thế chấp cũng rất khó khăn khi thị trường này còn đang được dự đoán “đáy” đang ở phía trước, và nếu ngân hàng có “ôm” thì cũng rất khó xử lý.

Hai điểm nghẽn lớn trên đã tác động tiêu cực đến nhiều mặt kinh tế- xã hội, rõ nhất là ảnh hưởng tăng trưởng kinh tế. Mặc dù tăng trưởng kinh tế đã thoát đáy vào quý I, khi tốc độ đã cao lên trong quý II, nhưng tính chung 6 tháng vẫn thấp xa so với cùng kỳ 2 năm trước, thấp xa so với mục tiêu cả năm.

Trong 7 tháng đầu năm, đã có  hơn 30 nghìn doanh nghiệp phải giải thể, tạm ngừng hoạt động ; nếu không có biện pháp cứu doanh nghiệp quyết liệt, kịp thời, thì năm nay con số này sẽ tăng, từ đó, kéo theo số người thất nghiệp, thiếu việc làm tăng, tác động tiêu cực đến việc thực hiện mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội. 

Tăng liều lượng "thuốc"

Để xử lý các điểm nghẽn trên, Nghị quyết 13/NQ-CP của Chính phủ đã đề ra các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, bao gồm các giải pháp về tài khoá, về đầu tư và tín dụng. Việc đưa ra các giải pháp như trên, trong điều kiện nguồn lực có hạn (thu ngân sách khó khăn hơn, thanh khoản ngân hàng đã có sự cải thiện nhưng chưa thật bền vững, lạm phát đã được kiềm chế bước đầu nhưng chưa thật vững chắc…), lại phải đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, là đúng hướng, đồng bộ và phù hợp. Các Bộ, ngành, địa phương đã tích cực, khẩn trương thực hiện, một số biện pháp liều lượng còn mạnh hơn.

Về tài chính và đầu tư, đã hướng dẫn thực hiện việc gia hạn 6 tháng thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng; giảm 50% tiền thuế đất phải nộp; gia hạn 9 tháng thời hạn nộp đối với thuế thu nhập doanh nghiệp; miễn thuế môn bài năm 2012 đối với hộ đánh bắt hải sản và hộ sản xuất muối; gia hạn tối đa 12 tháng thời hạn nộp tiền sử dụng đất; giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2012; miễn thuế khoán giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2012 đối với một số đối tượng, đẩy mạnh tiến độ giải ngân các nguồn vốn đầu tư…

Ngoài ra, còn có một số giải pháp có liều lượng mạnh hơn, như nâng mức chịu thuế thu nhập cá nhân có liên quan đến 2/3 tổng số đối tượng nộp thuế cá nhân hiện nay; tạm ứng vốn đầu tư thuộc nguồn ngân sách năm 2013 với mức 30 nghìn tỷ đồng…

Về tiền tệ tín dụng, đã thực hiện ngay việc hạ trần lãi suất huy động về 9%/năm; đưa lãi suất cho vay ưu tiên về 12-13%/năm và vận động các ngân hàng thương mại đưa các khoản nợ cũ với lãi suất cao về dưới 15%, hỗ trợ tín dụng mua tạm trữ gạo xuất khẩu, hỗ trợ ngành nuôi cá tra…

Kết quả của việc thực hiện các giải pháp trên đã góp phần làm cho sản xuất kinh doanh và thị trường giảm bớt khó khăn, tăng trưởng kinh tế cho thấy tín hiệu thoát đáy vượt dốc đi lên.

Tuy nhiên, ngoài các giải pháp trên, người viết cho rằng cần triển khai tích cực các giải pháp như để xử lý điểm nghẽn thứ nhất, cần có đề án giải quyết nợ xấu một cách khẩn trương, với nguồn vốn chủ yếu  từ sự đóng góp của các ngân hàng thương mại, sự tham gia của các tổ chức và nhà đầu tư nước ngoài…, đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc ngân hàng, có thể áp dụng trở lại biện pháp cấp bù lãi suất như năm 2009 với liều lượng thấp hơn, sử dụng các công cụ tài chính khác để cứu doanh nghiệp.

Để xử lý điểm nghẽn thứ hai, cần áp dụng nhiều giải pháp như giảm thuế giá trị gia tăng trên mỗi hoá đơn bán lẻ, giảm thuế thu nhập cá nhân để tăng khả năng thanh toán của một bộ phận dân cư, áp dụng biện pháp tín dụng tiêu dùng với lãi suất tương đối hợp lý để người có nhu cầu tiêu dùng mua sắm, mở rộng mô hình liên kết tiêu thụ dưới dạng ứng vốn, ứng giống cho người nông dân rồi thu mua nông sản, đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; đưa hàng về nông thôn; hỗ trợ tìm thị trường xuất khẩu…

Bên cạnh đó, hỗ trợ đầu tư công trình theo chương trình xây dựng nông thôn mới, nhất là các công trình kiên cố hóa kênh mương, kiên cố hóa mặt đường, nước sạch… để vừa giảm tồn kho vật liệu xây dựng, vừa giải quyết việc làm, tăng thu nhập, sức mua có khả năng thanh toán của dân cư…

Chinhphu.vn

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
AVPL/SJC HCM 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
AVPL/SJC ĐN 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
Nguyên liệu 9999 - HN 68,850 ▲450K 69,450 ▲550K
Nguyên liệu 999 - HN 68,750 ▲450K 69,350 ▲550K
AVPL/SJC Cần Thơ 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
Cập nhật: 28/03/2024 23:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
TPHCM - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Hà Nội - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Hà Nội - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Đà Nẵng - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Đà Nẵng - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Miền Tây - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Miền Tây - SJC 79.000 ▲200K 81.000 ▲100K
Giá vàng nữ trang - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 68.500 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 68.500 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 68.400 ▲300K 69.200 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 50.650 ▲220K 52.050 ▲220K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.230 ▲170K 40.630 ▲170K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.540 ▲130K 28.940 ▲130K
Cập nhật: 28/03/2024 23:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,835 ▲30K 6,990 ▲30K
Trang sức 99.9 6,825 ▲30K 6,980 ▲30K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NL 99.99 6,830 ▲30K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,830 ▲30K
Miếng SJC Thái Bình 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Miếng SJC Nghệ An 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Miếng SJC Hà Nội 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Cập nhật: 28/03/2024 23:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 ▲100K 81,000 ▲100K
SJC 5c 79,000 ▲100K 81,020 ▲100K
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 ▲100K 81,030 ▲100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 68,500 ▲250K 69,750 ▲300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 68,500 ▲250K 69,850 ▲300K
Nữ Trang 99.99% 68,400 ▲250K 69,250 ▲300K
Nữ Trang 99% 67,064 ▲297K 68,564 ▲297K
Nữ Trang 68% 45,245 ▲204K 47,245 ▲204K
Nữ Trang 41.7% 27,030 ▲125K 29,030 ▲125K
Cập nhật: 28/03/2024 23:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,660.26 15,818.45 16,326.56
CAD 17,743.11 17,922.33 18,498.03
CHF 26,676.40 26,945.86 27,811.41
CNY 3,357.08 3,390.99 3,500.45
DKK - 3,515.18 3,649.93
EUR 26,018.34 26,281.16 27,446.04
GBP 30,390.95 30,697.93 31,684.00
HKD 3,086.91 3,118.09 3,218.25
INR - 296.34 308.20
JPY 158.69 160.29 167.96
KRW 15.84 17.60 19.20
KWD - 80,359.61 83,575.55
MYR - 5,182.84 5,296.09
NOK - 2,236.99 2,332.06
RUB - 255.43 282.77
SAR - 6,588.96 6,852.65
SEK - 2,268.45 2,364.86
SGD 17,871.79 18,052.31 18,632.18
THB 599.73 666.36 691.91
USD 24,580.00 24,610.00 24,950.00
Cập nhật: 28/03/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,849 15,869 16,469
CAD 17,994 18,004 18,704
CHF 26,983 27,003 27,953
CNY - 3,362 3,502
DKK - 3,502 3,672
EUR #25,932 26,142 27,432
GBP 30,784 30,794 31,964
HKD 3,040 3,050 3,245
JPY 159.84 159.99 169.54
KRW 16.18 16.38 20.18
LAK - 0.68 1.38
NOK - 2,212 2,332
NZD 14,576 14,586 15,166
SEK - 2,250 2,385
SGD 17,820 17,830 18,630
THB 627.06 667.06 695.06
USD #24,555 24,595 25,015
Cập nhật: 28/03/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,610.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,298.00 26,404.00 27,570.00
GBP 30,644.00 30,829.00 31,779.00
HKD 3,107.00 3,119.00 3,221.00
CHF 26,852.00 26,960.00 27,797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15,877.00 15,941.00 16,428.00
SGD 18,049.00 18,121.00 18,658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,916.00 17,988.00 18,519.00
NZD 14,606.00 15,095.00
KRW 17.59 19.18
Cập nhật: 28/03/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24593 24643 24983
AUD 15883 15933 16343
CAD 18015 18065 18469
CHF 27159 27209 27624
CNY 0 3394.2 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26474 26524 27027
GBP 31019 31069 31522
HKD 0 3115 0
JPY 161.65 162.15 166.68
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0264 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14574 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18196 18196 18548
THB 0 638.7 0
TWD 0 777 0
XAU 7930000 7930000 8070000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 28/03/2024 23:00