Sử dụng vật liệu nổ công nghiệp: Giải pháp giảm thiểu rủi ro

20:12 | 21/05/2017

3,123 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề mất an toàn, tai nạn sự cố liên quan đến quá trình quản lý sử dụng vật liệu nổ công nghiệp (VLNCN) vẫn còn nhiều vấn đề cần khắc phục. 

Nhiều sự cố do chủ quan

Theo số liệu báo cáo tại Hội thảo Quản lý, sản xuất, sử dụng VLNCN trong khai thác than hầm lò tổ chức mới đây tại Quảng Ninh, cả nước hiện có 8 doanh nghiệp được phép sản xuất VLNCN, tiền chất thuốc nổ, gồm: Tổng Công ty Công nghiệp Hóa chất mỏ - Vinacomin (MICCO) và 7 đơn vị thuộc Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng. Hiện năng lực tối đa của 8 doanh nghiệp có khả năng sản xuất trên 180.000 tấn VLNCN và 75 triệu kíp các loại, trong khi nhu cầu sử dụng VLNCN trong nước trung bình 1 năm chỉ ở mức trên dưới 130 ngàn tấn.

Theo ông Cao Anh Dũng, Phó cục trưởng Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương), nhu cầu sử dụng VLNCN trong các ngành công nghiệp khai khoáng, xây dựng, thủy lợi và giao thông… tăng mạnh (năm 1996 mới tiêu thụ 16.000 tấn, đến năm 2016 tiêu thụ 122.000 tấn). Đặc biệt, khai thác than chiếm một tỷ trọng lớn (khoảng 50 ÷ 60%) tổng lượng tiêu thụ VLNCN toàn quốc (năm 2016 ngành than sử dụng khoảng 60.000 tấn thuốc nổ, 40 triệu kíp nổ, 20 triệu dây nổ các loại).

su dung vat lieu no cong nghiep giai phap giam thieu rui ro
Giám sát khoan nổ mìn trong khai thác khoáng sản

Vấn đề đáng quan tâm là thời gian qua đã để xảy ra nhiều vụ tai nạn, sự cố liên quan đến sử dụng VLNCN trong khai thác khoáng sản; đặc biệt tại một số đơn vị khai thác than hầm lò thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV). Từ năm 2010 đến nay, các đơn vị sản xuất khai thác than của TKV đã để xảy ra 26 vụ sự cố và tai nạn liên quan đến sử dụng VLNCN làm 8 người chết, 43 người bị thương. Điển hình gần đây nhất là vụ tai nạn ngày 29-9-2016 tại Công ty Than Khe Chàm làm 14 người bị thương. Nguyên nhân chủ yếu của các vụ sự cố, tai nạn do vi phạm các quy định về sử dụng, khoan, nổ mìn trong hầm lò, chỉ huy nổ mìn, thợ mìn còn chủ quan, việc kiểm tra của cán bộ chưa hiệu quả, đồng thời công tác kiểm soát chất lượng VLNCN cũng chưa được quan tâm đúng mức.

Ông Nguyễn Văn Trịnh, Trưởng ban An toàn TKV cho biết, trong số 26 vụ tai nạn, sự cố liên quan trực tiếp đến VLNCN, tai nạn do mìn câm, mìn sót tới 17 vụ. Nguyên nhân do thực hiện không đúng quy trình, quy định: 12 vụ. Còn lại 3 vụ do thiếu kiến thức về kỹ thuật an toàn VLNCN, 2 vụ do thiết kế hoặc thi công không đúng hộ chiếu; 2 vụ bắt nguồn từ nguyên nhân gây cháy nổ đường lò, tạo khí độc trong đường lò khi sử dụng VLNCN.

Siết chặt quản lý, tăng cường giải pháp

Để giảm bớt, loại trừ những tai nạn, sự cố trong công tác sử dụng VLNCN, đặc biệt trong khai thác than hầm lò với rất nhiều nguy cơ tiềm ẩn dễ dẫn đến tai nạn lao động, ông Cao Anh Dũng đề nghị các đơn vị, doanh nghiệp khẩn trương triển khai thực hiện các nhiệm vụ. Cụ thể: Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Công Thương) chủ trì nghiên cứu, đề xuất chỉnh sửa Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về các loại kíp nổ điện số QCVN 02:2015/BCT, đặc biệt xem xét dải chênh điện trở của loại kíp vi sai để phù hợp với các nước tiên tiến. Xem xét việc sử dụng kíp nổ phi điện để nâng cao mức độ an toàn trong nổ mìn mỏ hầm lò.

Phối hợp với đơn vị sản xuất và đơn vị sử dụng nghiên cứu sản xuất, hoàn thiện kíp điện vi sai an toàn nhiều số (hiện tại chỉ có 6 số); tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện thuốc nổ an toàn trong môi trường có khí bụi nổ đảm bảo an toàn và hiệu quả trong điều kiện khai thác than ở Việt Nam ngày càng xuống sâu, đá cứng chắc hơn và nguy cơ xuất hiện khi CH4 lớn hơn; nghiên cứu chế tạo giảm đường kính thỏi thuốc nổ hầm lò để dùng cho lỗ mìn biên.

Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Bộ Công Thương) nghiên cứu, sửa đổi những quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật, quy chuẩn kỹ thuật an toàn nhằm tạo thuận lợi cho các đơn vị có hoạt động VLNCN dễ thực hiện được các quy định, nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc an ninh, an toàn trong tất cả các khâu từ sản xuất, cung ứng, bảo quản vận chuyển và sử dụng VLNCN. Đồng thời chủ trì, phối hợp với TKV tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc tổ chức thực hiện các quy định để hướng dẫn, điều chỉnh kịp thời các quy định chưa phù hợp.

Đối với các đơn vị sản xuất, cung ứng VLNCN chú ý quản lý chặt chẽ hơn nữa chất lượng sản phẩm hàng hóa VLNCN, cung cấp cho khách hàng những loại VLNCN đảm bảo tốt chất lượng như đã công bố; xây dựng quy trình đo điện trở kíp, phân loại điện trở kíp theo nhóm để hạn chế nguy cơ gây hiện tượng mìn câm. Đặc biệt, phải thực hiện việc lấy mẫu kiểm tra các chỉ tiêu theo quy định tại Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn trong sản xuất, thử nghiệm và nghiệm thu VLNCN số QCVN 01:2012/BCT do các Trung tâm Kiểm tra VLNCN được Bộ Công Thương chỉ định thực hiện. Tăng cường công tác tư vấn, hướng dẫn khách hàng để sử dụng VLNCN an toàn, hiệu quả.

TKV, Tổng Công ty Đông Bắc có trách nhiệm chỉ đạo các đơn vị trực thuộc nghiêm túc thực hiện các vấn đề: Đo kiểm tra 100% điện trở kíp điện và phân loại kíp để có sự chênh lệch điện trở nhỏ ± 0,2 Ω trước khi cấp phát để sử dụng. Đo điện trở toàn mạng nổ bảo đảm phù hợp giá trị cho phép của máy nổ mìn. Rà soát các quy định về khoan nổ mìn, bảo quản, vận chuyển, sử dụng VLNCN để điều chỉnh phù hợp. Đặc biệt, cần thiết phải xây dựng biện pháp kỹ thuật an toàn trong công tác kiểm tra, đánh giá, nhận định kết quả bãi nổ, phát hiện và xử lý mìn câm, bảo đảm an toàn mới cho phép công nhân trở lại làm việc... Đồng thời, đưa ra giải pháp quản lý, giải pháp công nghệ, giải pháp tổ chức thực hiện, nhằm giảm tối đa, loại trừ tai nạn, sự cố trong hoạt động sử dụng VLNCN.

Minh Châu

  • el-2024
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps