Sông Đà - Thăng Long: “Sức khỏe” đã ở mức cùng cực

07:00 | 08/07/2015

6,834 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Công ty cổ phần Sông Đà-Thăng Long (STL) vừa công bố Nghị quyết Đại hội cổ đông thường niên năm 2015 với lợi nhuận âm tới gần 1.000 tỉ đồng.
Sông Đà - Thăng Long: “Sức khỏe” đã ở mức cùng cực
Khu chung cư Usilk City trên đường Lê Văn Lương.

Theo đó, trong năm 2014, mặc dù tổng giá trị sản xuất kinh doanh là 480 tỉ đồng (so với kế hoạch là 192 tỷ) nhưng lợi nhuận của Sông Đà-Thăng Long lại âm tới 996,4 tỉ đồng; tỷ lệ chia cổ tức là 0%.

Chuyện Sông Đà-Thăng Long bết bát, lỗi hẹn, thậm chí là hành xử như thể “chí phèo” không phải chuyện mới mà từ nhiều năm trước, “sức khỏe” của công ty này đã gắn liền với nỗi ám ảnh Usilk City.

Những năm 2008-2009, khi mới được giới thiệu, Usilk City đã tạo nên một cơn “sốt” trên thị trường bất động sản, và được giới đầu tư đặt rất nhiều kỳ vọng sẽ là điểm nhấn làm thay đổi diện mạo của quận Hà Đông. Dự án Usilk City có quy mô lên rộng 9,2 ha, gồm 13 tòa nhà với chiều cao từ 25-30 tầng, tổng mức đầu tư của dự án cũng lên tới 10.000 tỉ đồng. Dự án do Công ty cổ phần Sông Đà - Thăng Long (mã chứng khoán STL) làm chủ đầu tư. Trong đó, 3 tòa nhà thuộc cụm CT1 được chủ đầu tư đưa ra chào hàng đầu tiên.

Tuy nhiên, cũng như nhiều dự án bất động sản khác, khách hàng mua nhà tại dự án Usilk City từ kỳ vọng đã phải đi đến thất vọng. Usilk City liên tục chậm bàn giao nhà theo tiến độ cam kết mà chủ đầu tư đã ký với khách hàng. Thậm chí, trước những lời quảng cáo, chào mời kiểu như thưởng diện tích thương mại… nhiều khách hàng đã đóng tới cả 100% giá trị hợp đồng với chủ đầu tư. Nhưng rồi, hết lần này đến lần khác, khách hàng vẫn không nhận được nhà.

Bất động sản lại nổi lòng... tham

Bất động sản lại nổi lòng... tham

Phải rất khó khăn thị trường bất động sản (BĐS) mới có dấu hiệu hồi phục, nhưng khi dấu hiệu ấy còn rất yếu ớt, hiện tượng đầu cơ, làm giá nhà đất lại xuất hiện.

Nếu còn “đánh bạc”, bất động sản sẽ lại... ngủ đông

Nếu còn “đánh bạc”, bất động sản sẽ lại... ngủ đông

Người mua nhà chỉ mới trở lại thị trường, tâm lý chờ đợi vẫn còn đè nặng. Vậy nên, nếu nghi vấn chủ đầu tư và sàn bất động sản (BĐS) bắt tay thổi giá căn hộ là đúng, thị trường BĐS chắc chắn sẽ phải đối diện với một giai đoạn đóng băng, ế ẩm mới.

Bộ trưởng Xây dựng nói về thị trường BĐS và nhà ở xã hội

Bộ trưởng Xây dựng nói về thị trường BĐS và nhà ở xã hội

Trong chương trình Dân hỏi-Bộ trưởng trả lời ngày 27/4, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trịnh Đình Dũng đã đề cập đến nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực thị trường bất động sản (BĐS) và nhà ở xã hội.

Nguyên nhân sâu xa của thực trạng này là do, cùng với những khó khăn chung của thị trường bất động sản, STL cũng lâm vào cảnh khó khăn, và theo báo cáo tài chính gần nhất mà STL đưa ra thì công ty này đang gánh lên trên vai khoản nợ lên tới 6.000 tỉ đồng. Thực tế này cũng đã được chính STL nhiều lần lên tiếng chia sẻ, khẳng định mỗi lần chậm tiến độ bàn giao nhà rằng: Chúng tôi đang gặp khó khăn và rất mong nhận được sự thông cảm, chia sẻ của khách hàng.

Thậm chí, khi mô hình quản lý dòng tiền được áp dụng ở Usilk City với sự tham gia của ngân hàng và của chính đại diện khách hành, “siêu dự án” một thời này vẫn không thể lỗi hẹn. Hết quý I/2014, rồi đến quý II và giờ đã bước sang năm 2015, dự án vẫn không thể bàn giao nhà như đã hứa.

Nói về sự thất bại của mô hình quản lý dòng tiền ở Usilk City, Tổng giám đốc STL Nguyễn Trí Dũng trong văn bản gửi các khách hàng của dự án những tháng đầu năm 2014 đã nêu: Trong thời điểm thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường bất động sản có những biến động xấu như thời gian qua thì việc đưa một dự án quay lại thi công đã khó, đưa một tổ chức tài chính vào cùng tham gia tài trợ vốn để triển khai là việc khó hơn. Hiện STL đang trong quá trình đàm phán với các tổ chức tín dụng tài trợ vốn để có thể tiếp tục triển khai thi công dự án.

Dự án chậm tiến độ lại gánh trên vai những khoản vay lên tới cả ngàn tỉ đồng, vậy nên, chuyện Usilk City đứng đầu bảng những “chúa chổm” về thuế ở Hà Nội xem ra cũng là điều dễ hiểu!

Thanh Ngọc (Năng lượng Mới)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 ▲2000K 84,000 ▲1500K
AVPL/SJC HCM 82,000 ▲2000K 84,000 ▲1500K
AVPL/SJC ĐN 82,000 ▲2000K 84,000 ▲1500K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,450 ▲300K 74,400 ▲300K
Nguyên liệu 999 - HN 73,350 ▲300K 74,300 ▲300K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 ▲2000K 84,000 ▲1500K
Cập nhật: 24/04/2024 22:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 82.500 ▲1500K 84.500 ▲1200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 24/04/2024 22:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,320 ▲35K 7,525 ▲25K
Trang sức 99.9 7,310 ▲35K 7,515 ▲25K
NL 99.99 7,315 ▲35K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,295 ▲35K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,385 ▲35K 7,555 ▲25K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,385 ▲35K 7,555 ▲25K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,385 ▲35K 7,555 ▲25K
Miếng SJC Thái Bình 8,240 ▲140K 8,440 ▲130K
Miếng SJC Nghệ An 8,240 ▲140K 8,440 ▲130K
Miếng SJC Hà Nội 8,240 ▲140K 8,440 ▲130K
Cập nhật: 24/04/2024 22:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,500 ▲1500K 84,500 ▲1200K
SJC 5c 82,500 ▲1500K 84,520 ▲1200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,500 ▲1500K 84,530 ▲1200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 ▲200K 74,900 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 ▲200K 75,000 ▲200K
Nữ Trang 99.99% 72,900 ▲300K 74,100 ▲200K
Nữ Trang 99% 71,366 ▲198K 73,366 ▲198K
Nữ Trang 68% 48,043 ▲136K 50,543 ▲136K
Nữ Trang 41.7% 28,553 ▲84K 31,053 ▲84K
Cập nhật: 24/04/2024 22:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,099.42 16,262.04 16,783.75
CAD 18,096.99 18,279.79 18,866.22
CHF 27,081.15 27,354.69 28,232.26
CNY 3,433.36 3,468.04 3,579.84
DKK - 3,572.53 3,709.33
EUR 26,449.58 26,716.75 27,899.85
GBP 30,768.34 31,079.13 32,076.18
HKD 3,160.05 3,191.97 3,294.37
INR - 304.10 316.25
JPY 159.03 160.63 168.31
KRW 16.01 17.78 19.40
KWD - 82,264.83 85,553.65
MYR - 5,261.46 5,376.21
NOK - 2,279.06 2,375.82
RUB - 261.17 289.12
SAR - 6,753.41 7,023.40
SEK - 2,294.19 2,391.60
SGD 18,200.78 18,384.62 18,974.42
THB 606.76 674.18 700.00
USD 25,147.00 25,177.00 25,487.00
Cập nhật: 24/04/2024 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,195 16,215 16,815
CAD 18,233 18,243 18,943
CHF 27,305 27,325 28,275
CNY - 3,437 3,577
DKK - 3,554 3,724
EUR #26,316 26,526 27,816
GBP 31,061 31,071 32,241
HKD 3,115 3,125 3,320
JPY 159.77 159.92 169.47
KRW 16.29 16.49 20.29
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,234 2,354
NZD 14,819 14,829 15,409
SEK - 2,263 2,398
SGD 18,112 18,122 18,922
THB 633.06 673.06 701.06
USD #25,135 25,135 25,487
Cập nhật: 24/04/2024 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,185.00 25,187.00 25,487.00
EUR 26,723.00 26,830.00 28,048.00
GBP 31,041.00 31,228.00 3,224.00
HKD 3,184.00 3,197.00 3,304.00
CHF 27,391.00 27,501.00 28,375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16,226.00 16,291.00 16,803.00
SGD 18,366.00 18,440.00 19,000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18,295.00 18,368.00 18,925.00
NZD 14,879.00 15,393.00
KRW 17.79 19.46
Cập nhật: 24/04/2024 22:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25195 25195 25487
AUD 16325 16375 16880
CAD 18364 18414 18869
CHF 27519 27569 28131
CNY 0 3469.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26892 26942 27645
GBP 31326 31376 32034
HKD 0 3140 0
JPY 161.93 162.43 166.97
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0346 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14885 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18459 18509 19066
THB 0 646 0
TWD 0 779 0
XAU 8230000 8230000 8400000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 24/04/2024 22:00