Nợ xấu: Trăm người muốn bán, vạn người muốn mua

07:00 | 18/10/2013

641 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
“Nợ xấu” là nợ không đẹp, không ai muốn mắc phải, tuy nhiên, nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) đang là miếng “bánh ngon” với các nhà đầu tư (NĐT) nước ngoài.

Xếp hàng bán… “nợ”

Theo một khảo sát gần đây, khi được hỏi, có tới 58% quỹ đầu tư nước ngoài muốn mua lại nợ xấu tại Việt Nam. Còn tại Việt Nam, trước đó, khi Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) bắt đầu triển khai mua nợ xấu, nhiều ngân hàng (NH) thờ ơ. Tuy nhiên, đến nay VAMC đã tiếp nhận nhiều hồ sơ đăng ký bán lại nợ xấu.

Trong báo cáo cập nhật triển vọng phát triển châu Á của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) mới công bố, ADB công nhận Chính phủ Việt Nam đã thực hiện một số biện pháp để giải quyết vấn đề nợ xấu trong hệ thống NH, trong đó đáng chú ý là sự ra đời của VAMC.

Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu thực tế đang rất cao và các nhà phân tích độc lập cho rằng số nợ xấu sẽ tăng gấp 3-4 lần so với con số NHNN công bố, nếu áp dụng các chuẩn mực kế toán và trích lập dự phòng quốc tế. Điều này có nghĩa là, nếu áp dụng tiêu chuẩn quốc tế, thì nợ xấu của Việt Nam có thể lên tới 400.000-500.000 tỉ đồng - một con số khổng lồ.

"Nợ xấu" là món "mồi ngon" với nhiều nhà đầu tư

Thực tế cho thấy, nợ xấu của các NH cũng cao hơn báo cáo và các báo cáo gửi tới các đối tượng khác nhau thì có kết quả khác nhau. Chẳng hạn như theo báo cáo tài chính bán niên 2013 của các NH thì nợ xấu hầu hết là dưới 3%, chỉ một số nhà băng “mạnh dạn” đưa ra số liệu nợ xấu cao như PGBank, SHB, SCB... nhưng số liệu do chính các TCTD báo cáo về NHNN thì lại lên tới gần 5%. Khi VAMC mua lại nợ xấu của Agribank người ta mới giật mình bởi nợ xấu của Agribank là hơn 33.500 tỉ đồng, trong khi vốn điều lệ của ngân hàng này chỉ 29.605 tỉ đồng.

Lãnh đạo PGBank cho biết, số nợ xấu PGBank bán cho VAMC vào ngày 4-10 là 170 tỉ đồng. PGBank cũng công bố số liệu nợ xấu của NH này trước khi bán cho VAMC là 8%. Dự kiến, vào cuối năm NH sẽ đưa nợ xấu về mức 3% theo yêu cầu của NHNN thông qua việc xử lý tài sản đảm bảo, cơ cấu nợ và bán thêm nợ cho VAMC.

Tổng giám đốc NH SHB, ông Nguyễn Văn Lê cho biết, tổng số nợ xấu SHB dự kiến bán cho VAMC hơn 1.000 tỉ đồng. Ngoài những khoản nợ đã bán cho VAMC ngày 4/10, còn những khoản nợ khác mà VAMC đang trong quá trình rà soát.

Trái với thái độ thờ ơ trước đây thì hiện nay không chỉ những NH có tỷ lệ xấu cao buộc phải bán cho VAMC mà ngay cả những NH có tỷ lệ nợ xấu công bố dưới 3% hiện cũng có ý định bán khoản nợ này.

Ông Phạm Hữu Phú, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Sacombank cho biết, hiện tỷ lệ nợ xấu của Sacombank ở mức 2,8% nhưng cũng muốn bán cho VAMC. “Khả năng số nợ mà Sacombank sẽ bán cho VAMC khoảng 1.000 tỉ đồng nợ xấu”, vị này cho biết.

Ông Đỗ Minh Toàn, Tổng giám đốc ACB cho biết, ACB có khoảng 1.500 tỉ đồng nợ xấu đủ điều kiện bán nợ cho VAMC. Hiện nay, NH đang chủ động tính toán các phương án, trong đó có việc bán lúc nào và với giá nào. Thời gian bán lại nợ xấu cho VAMC là 5 năm, đủ để NH giảm bớt áp lực nợ xấu, quan trọng hơn tiền thu được từ bán nợ xấu sẽ đưa vào kinh doanh để sinh lời.

Theo ông Trịnh Văn Tuấn, Chủ tịch Hội đồng Quản trị NH Phương Đông (OCB), trước đây các NH không “mặn mà” bán nợ cho VAMC do tổ chức này yêu cầu món nợ phải có tài sản thế chấp chủ yếu bằng bất động sản mới chấp nhận mua nợ. Nhưng những món nợ có tài sản thế chấp bằng bất động sản thì NH có thể xử lý được, thậm chí nhanh hơn so với việc bán qua VAMC. Chưa kể trong thực tế không phải bất kỳ khoản vay nào cũng có tài sản thế chấp là bất động sản. Do vậy, giải pháp tối ưu là bán qua VAMC.

Cũng theo các NH, một lý do khác khiến các NH có tỷ lệ nợ xấu dưới 3% vẫn muốn bán nợ cho VAMC vì tháng 6/2014 khi áp dụng Thông tư 02/2013/TT-NHNN, tỷ lệ nợ xấu sẽ tăng lên rất cao, có thể gấp đôi so với mức hiện nay. Do vậy bán những khoản nợ “có vấn đề” cho VAMC ngay lúc này ngoài việc làm cho sổ sách đẹp hơn, các NH còn tránh được việc nợ xấu tăng đột biến khi áp dụng Thông tư 02 vào năm sau.

Theo các chuyên gia, bán nợ cho VAMC được 3 điều lợi, đó là: có thể đưa nợ xấu ra ngoài bảng cân đối kế toán; có cơ hội vay được tiền tái cấp vốn; chỉ phải trích lập 20%/năm cho giá trị nợ xấu thay vì có thể lên đến 100%. Vậy nên, các NH nên trung thực công bố nợ xấu và NHNN cũng phải yêu cầu các NH áp dụng các tiêu chí phân loại nợ giống nhau để đưa ra một con số thống nhất về nợ xấu, từ đó mới tìm ra biện pháp hữu hiệu để nhanh chóng phá băng “cục máu đông” của nền kinh tế. Với các NH quá yếu kém để cho nợ xấu vượt cả vốn điều lệ, NHNN cần quyết liệt yêu cầu phải tái cơ cấu.

Nước ngoài cũng “thèm”

Tại hội thảo quốc tế chuyển động kinh tế vĩ mô và triển vọng tái cấu trúc ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam sáng 9/10, TS Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia cho biết, chưa bao giờ các NĐT nước ngoài lại muốn mua lại nợ xấu Việt Nam như bây giờ.

“Có những tên tuổi quỹ đầu tư nước ngoài, tập đoàn chưa bao giờ đặt chân tới Việt Nam vì cho rằng, không có khoản nợ nào đủ lớn để mua, thì nay họ cũng đã đến và tìm hiểu mua nợ”- TS Nghĩa cho biết.

Còn theo một khảo sát mới đây, TS Cấn Văn Lực, Giám đốc Trường Đào tạo BIDV thông tin, có tới 58% quỹ đầu tư nước ngoài được hỏi đang rất quan tâm tới việc mua nợ xấu của Việt Nam.

Để việc triển khai tái cấu trúc hệ thống NH và xử lý nợ xấu được đẩy mạnh hơn, TS Lê Xuân Nghĩa đề xuất 5 giải pháp. Trước tiên, cần tạo sự đồng thuận hơn nữa, nhất là sự đồng thuận cấp cao của Chính phủ, các bộ, ngành liên quan. Chính phủ phải có thái độ rất rõ ràng về trách nhiệm của mình trong việc xử lý nợ xây dựng cơ bản, khoản nợ này hiện đang rất lớn, tới 91.000 tỉ đồng. “Phải rạch ròi trách nhiệm thuộc về ai, ai giải quyết, không thể để VAMC một mình giải quyết các khoản nợ lớn, NHTM tự giải quyết khoản nợ nhỏ, trong khi nợ xây dựng cơ bản đang là vấn đề bức bối thì Chính phủ làm ngơ xử lý nợ xấu xây dựng cơ bản thì không thể giải quyết nợ xấu trong hệ thống tài chính” - ông Lê Xuân Nghĩa nói.

Thứ hai, về xử lý nợ xấu, cần giải tỏa những lo ngại của NH và doanh nghiệp khi bán nợ cho VAMC. Đồng thời có thêm nguồn lực tài chính ngoài trái phiếu đặc biệt để xử lý nợ xấu. Thứ ba là tăng cường thanh tra, giám sát kỷ cương, kỷ luật và minh bạch của hệ thống ngân hàng. Thứ tư là hoàn thiện hệ thống quản trị và hiện đại hóa hệ thống NH. Đề xuất cuối cùng được đưa ra, là khoanh vùng tiến hành điều tra toàn diện về cơ cấu sở hữu NH và có lộ trình xử lý dứt điểm tình trạng sở hữu chéo.

“Phải hết sức thận trọng với những khoản nợ của các doanh nghiệp, tập đoàn tư nhân có khoản nợ lớn tới hàng chục ngàn tỉ đồng đang chôn trong NH, có thể khoản nợ này đang ở nhóm 1-2 nhưng cũng có thể trở thành nợ nhóm 4-5 nếu nền kinh tế phục hồi chậm” - TS Lê Xuân Nghĩa cảnh báo.

Thảo Nguyên

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
AVPL/SJC HCM 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
AVPL/SJC ĐN 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
Nguyên liệu 9999 - HN 68,600 ▲200K 69,100 ▲200K
Nguyên liệu 999 - HN 68,500 ▲200K 69,000 ▲200K
AVPL/SJC Cần Thơ 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
Cập nhật: 28/03/2024 15:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
TPHCM - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Hà Nội - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Hà Nội - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Đà Nẵng - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Đà Nẵng - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Miền Tây - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Miền Tây - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 68.500 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 68.500 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 68.400 ▲300K 69.200 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 50.650 ▲220K 52.050 ▲220K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.230 ▲170K 40.630 ▲170K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.540 ▲130K 28.940 ▲130K
Cập nhật: 28/03/2024 15:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,835 ▲30K 6,990 ▲30K
Trang sức 99.9 6,825 ▲30K 6,980 ▲30K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NL 99.99 6,830 ▲30K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,830 ▲30K
Miếng SJC Thái Bình 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Miếng SJC Nghệ An 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Miếng SJC Hà Nội 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Cập nhật: 28/03/2024 15:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 ▲100K 81,000 ▲100K
SJC 5c 79,000 ▲100K 81,020 ▲100K
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 ▲100K 81,030 ▲100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 68,500 ▲250K 69,750 ▲300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 68,500 ▲250K 69,850 ▲300K
Nữ Trang 99.99% 68,400 ▲250K 69,250 ▲300K
Nữ Trang 99% 67,064 ▲297K 68,564 ▲297K
Nữ Trang 68% 45,245 ▲204K 47,245 ▲204K
Nữ Trang 41.7% 27,030 ▲125K 29,030 ▲125K
Cập nhật: 28/03/2024 15:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,746.30 15,905.35 16,416.24
CAD 17,788.18 17,967.86 18,545.00
CHF 26,675.39 26,944.84 27,810.33
CNY 3,359.56 3,393.49 3,503.02
DKK - 3,529.14 3,664.43
EUR 26,123.05 26,386.92 27,556.48
GBP 30,490.18 30,798.16 31,787.43
HKD 3,088.24 3,119.43 3,219.63
INR - 296.48 308.35
JPY 158.88 160.48 168.16
KRW 15.92 17.68 19.29
KWD - 80,418.21 83,636.45
MYR - 5,184.94 5,298.23
NOK - 2,247.55 2,343.06
RUB - 256.11 283.53
SAR - 6,591.62 6,855.41
SEK - 2,284.40 2,381.48
SGD 17,924.11 18,105.16 18,686.71
THB 601.12 667.91 693.52
USD 24,590.00 24,620.00 24,960.00
Cập nhật: 28/03/2024 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,885 15,985 16,435
CAD 17,989 18,089 18,639
CHF 26,895 27,000 27,800
CNY - 3,390 3,500
DKK - 3,541 3,671
EUR #26,318 26,353 27,613
GBP 30,878 30,928 31,888
HKD 3,094 3,109 3,244
JPY 160.37 160.37 168.32
KRW 16.59 17.39 20.19
LAK - 0.88 1.24
NOK - 2,253 2,333
NZD 14,577 14,627 15,144
SEK - 2,279 2,389
SGD 17,922 18,022 18,622
THB 626.74 671.08 694.74
USD #24,545 24,625 24,965
Cập nhật: 28/03/2024 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,610.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,298.00 26,404.00 27,570.00
GBP 30,644.00 30,829.00 31,779.00
HKD 3,107.00 3,119.00 3,221.00
CHF 26,852.00 26,960.00 27,797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15,877.00 15,941.00 16,428.00
SGD 18,049.00 18,121.00 18,658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,916.00 17,988.00 18,519.00
NZD 14,606.00 15,095.00
KRW 17.59 19.18
Cập nhật: 28/03/2024 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24588 24638 24978
AUD 15937 15987 16389
CAD 18036 18086 18487
CHF 27139 27189 27601
CNY 0 3394.7 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26450 26500 27086
GBP 31060 31110 31570
HKD 0 3115 0
JPY 161.68 162.18 166.71
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0264 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14618 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18214 18214 18575
THB 0 639.5 0
TWD 0 777 0
XAU 7930000 7930000 8070000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 28/03/2024 15:45