Nhiều bất ổn từ Quỹ bình ổn giá xăng dầu

15:43 | 23/09/2011

648 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Xăng dầu là mặt hàng đặc biệt và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế. Và việc thành lập Quỹ bình ổn giá xăng dầu của Chính phủ không nằm ngoài mục đích ổn định sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, sau hơn 2 năm hoạt động, Quỹ bình ổn giá xăng dầu đã bộc lộ khá nhiều bất cập.

Quỹ bình ổn giá xăng dầu đang bộc lộ nhiều bất cập.

Chủ trương đúng…

Ngày 9/1/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 04/2009/QĐ-TTg về việc trích Quỹ Bình ổn giá xăng dầu, trong đó Điều 2 quy định: ” Giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương: Căn cứ vào diễn biến giá cả thế giới và trong nước, quy định mức trích cụ thể trong từng thời điểm cho phù hợp; hướng dẫn cơ chế hoạt động, quản lý, sử dụng Quỹ”.

Theo đó, việc trích Quỹ Bình ổn giá là nhằm tạo ra một nguồn lực tài chính để thực hiện bình ổn giá xăng dầu góp phần vào việc bình ổn mặt bằng giá nói chung, kiểm soát lạm phát của nền kinh tế và chỉ phục vụ mục tiêu bình ổn giá thị trường trong nước khi giá thế giới tăng cao, không sử dụng vào mục đích nào khác.

Trong quy định tại Khoản 2 Điều 26 Nghị định số 84/2009/NĐ-CP cũng nêu rõ: "Quỹ BOG được lập để tại doanh nghiệp được hạch toán riêng và chỉ sử dụng vào mục đích bình ổn giá”, Quỹ BOG không thu vào Ngân sách Nhà nước. Đây cũng là một trong những biện pháp tài chính mà nhiều nước trên thế giới đã thực hiện để bình ổn giá. (BOG: bình ổn giá).

Trên thực tế, từ năm 2010 đến nay, nếu không có công cụ Quỹ Bình ổn giá thì giá xăng dầu trong nước đã phải tăng giá cao hơn và tần suất tăng giá cũng nhiều lần hơn, ví dụ: Nếu không được sử dụng Quỹ Bình ổn giá thì ngay trong thời điểm Tết Nguyên đán 2011 vừa qua đã phải điều chỉnh giá lên 700 – 1.200 đồng/lít,kg tùy theo từng chủng loại xăng dầu mà không thể giữ ổn định giá cho đến ngày 24/2/2011 mới điều chỉnh giá và mức giá phải tăng từ 3.510 – 5.850 đồng/lít,kg chứ không phải mức tăng chỉ từ: 2.110–3.550 đồng/lít,kg.

Hơn nữa, nếu không có Quỹ Bình ổn giá sẽ phải nhiều lần liên tiếp điều chỉnh giá xăng dầu trong nước, ví dụ: Từ ngày 22/10/2010 đến ngày 24/2/2011 sẽ phải điều chỉnh tăng giá bán xăng dầu ít nhất 4 lần tương ứng với các lần tăng mức sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng dầu.

Nhưng chế tài còn nhiều bất cập

Những đóng góp của Quỹ bình ổn giá xăng dầu vào việc ổn định nền kinh tế là không thể bàn cãi. Nhưng theo TS Nguyễn Minh Phong – Viện nghiên cứu phát triển kinh tế, xã hội Hà Nội thì bên cạnh những thông tin dường như khá minh bạch, người ta vẫn thấy có những bất cập cả trong cơ chế hiện hành, lẫn trong triển vọng hoạt động của Quỹ, cụ thể:

Thứ nhất, hoạt động trích lập Quỹ qua giá xăng dầu khiến người tiêu dùng chịu thiệt nhiều hơn lợi. Về bản chất, nguồn thu của Quỹ là giá xăng dầu thực mua mà người tiêu dùng phải trả và ứng trước cho Quỹ xét theo sự trọn vẹn của một quy trình trích lập và “xả” Quỹ để giữ bình ổn giá về danh nghĩa.

Nói cách khác, thực chất người tiêu dùng đã phải mua đắt giá xăng cho thời điểm trích lập quỹ, để rồi được trả lại số tiền đó nhờ mua xăng dầu với giá “rẻ” hơn khi “xả” Quỹ. Cảnh mượn "đầu heo nấu cháo” này khiến người tiêu dùng, dù có thể hưởng lợi ích ít nhiều nhờ không tăng giá xăng dầu khi xả quỹ, xong lại luôn chịu thiệt thòi do phải tạm ứng nguồn vốn hoạt động cho Quỹ, như kiểu “cho vay không lãi”. Rốt cuộc, dường như chỉ có DN kinh doanh xăng dầu luôn được bảo đảm lợi ích cả từ mức trích lợi nhuận định mức, cũng như “không có gì để mất” từ mọi hoạt động thu – chi Quỹ…

Thứ hai, cơ chế quản lý hành chính của Quỹ đi ngược xu hướng và làm méo mó giá cả thị trường.

Cơ chế hoạt động hiện hành của Quỹ mang đậm tính can thiệp hành chính nên mục tiêu thường ngược với xu hướng động thái thị trường thế giới, cụ thể hoặc làm tăng giá bán do yêu cầu tăng trích lập quỹ trong khi giá cả dầu mỏ thế giới giảm, hoặc làm giảm giá bán do yêu cầu xả quỹ để giữ ổn định giá khi giá thế giới tăng. Chính tính chất đặc trưng này của Quỹ đã trực tiếp và gián tiếp làm méo mó giá cả thị trường mỗi khi Quỹ vận hành, cả lúc trích và xả quỹ, khiến các động thái cung – cầu xăng dầu, cũng như hoạt động dự báo và hạch toán kinh doanh thị trường khác dễ trở nên nhiễu loạn.

Quỹ bình ổn giá quốc gia đã bị dừng hoạt động do không còn phù hợp với cam kết WTO thì liệu Quỹ bình ổn giá xăng dầu và một loạt quỹ khác tương tự liệu có được phép tồn tại lâu dài.

Thứ ba, việc ủy thác quản lý thu trích lập và chi dùng Quỹ cho DN có thể tạo nhiều kẽ hở cho sự lạm dụng và tham nhũng, hoặc làm phát sinh chi phí quản lý, giám sát hoạt động của Quỹ. Sự lạm dụng có thể đến từ 2 phía:

Lạm dụng từ kẽ hở khó lấp đầy của quy trình hành chính theo “cơ chế xin-cho” cả về mức, cũng như về thời điểm trích lập và chi tiêu Quỹ trong quan hệ giữa cơ quan quản lý với DN khi giá cả biến động dù tăng hay giảm.

Lạm dụng từ những “mẹo mực” kế toán, sự tính toán, khai báo, đo lường và thủ thuật gian lận khác về mức độ, thời điểm và số lượng xăng dầu nhập khẩu, tiêu thụ và tồn kho thực với số liệu báo cáo khi trích lập và xả Quỹ. Hơn nữa, việc để Quỹ lại tài khoản (dù riêng) của DN, cũng khiến không phải chỉ có một nguồn Quỹ tập trung, mà có tới nhiều Quỹ khác nhau ứng với số các DN đầu mối nhập khẩu xăng dầu được ủy thác quyền quản lý. Tình trạng phân tán Quỹ này làm phát sinh các chi phí quản lý của cả DN, cũng như cơ quan chức năng.

Thứ tư, hiệu quả và vị thế của Quỹ là chưa thật rõ ràng và thiểu ổn định. Bất chấp những cố gắng giải trình của cơ quan hữu quan cả về cơ sở pháp lý, cũng như hiệu quả hoạt động của Quỹ, song dư luận dường như đặt nghi ngờ nhiều hơn vào tính hiệu quả thực sự của Quỹ, cũng như ngay cả vị thế ổn định của Quỹ trong tương lai. Phần lớn thời gian và mức độ những chỉ trích về Quỹ dường như đều gắn với sự thiếu minh bạch, trách nhiệm giải trình và khó thuyết phục của những biện minh cho việc cần trích mức bao nhiêu và đã đến lúc tăng hay giảm giá, lỗ hay lãi của kinh doanh xăng dầu…

Thậm chí, nói cho công bằng, thì ngay cả thành tích làm chậm lại quá trình tăng giá cuối năm 2010 – đầu năm 2011 kể trên cũng không phải do sử dụng Quỹ, mà còn là hệ quả của các công cụ tài chính và hành chính Nhà nước khác. Cuối cùng thì, cú sốc tăng giá xăng dầu đầu tháng 2/2011, cũng như áp lực tăng, giảm giá xăng dầu về sau đã và sẽ mặc nhiên phủ định “tác dụng kỹ thuật” có tính hình thức của cái gọi là hiệu quả bình ổn giá của Qũy.

Hơn nữa, khi mà Quỹ bình ổn giá quốc gia đã bị dừng hoạt động do không còn phù hợp với cam kết WTO thì liệu Quỹ bình ổn giá xăng dầu và một loạt quỹ khác tương tự liệu có được phép tồn tại lâu dài?

Đặc biệt, cơ chế Quỹ cũng như phân cấp quản lý xăng dầu hiện hành khó cho phép bóc tách, phân biệt các hoạt động kinh doanh xăng dầu với quản lý dự trữ xăng dầu cho bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Điều này dễ gây lãng phí, chồng chéo trong hoạt động quản lý nhà nước, cũng như dễ tạo cơ hội cho sự lạm dụng và hạch toán thiếu minh bạch vì lợi ích nhóm, cục bộ, nhưng nhân danh “nhiệm vụ chính trị “trong lĩnh vực xăng dầu…

Thanh Ngọc