Ngành Xây dựng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2014

11:53 | 16/01/2015

1,011 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Sáng 16/1, tại Hà Nội, Bộ Xây dựng đã tổ chức Hội nghị trực tuyến tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2014 và triển khai nhiệm vụ kế hoạch năm 2015.

Tới dự Hội nghị, tại điểm cầu Hà Nội có đồng chí Trịnh Đình Dũng, Bộ trưởng Bộ Xây dựng và các đồng chí Thứ trưởng Bộ Xây dựng; đồng chí Nguyễn Văn Bình, Chủ tịch Công đoàn Xây dựng Việt Nam cùng đại diện lãnh đạo các Bộ, Ban, ngành của Đảng, Quốc hội và Chính phủ; đại diện lãnh đạo các Hội, Hiệp hội chuyên ngành Xây dựng; đại diện lãnh đạo các doanh nghiệp và cơ cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ Xây dựng.

Ở các điểm cầu địa phương có sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban nhân dân, Sở Xây dựng các tỉnh và thành phố.

Tại Hội nghị, thay mặt lãnh đạo Bộ Xây dựng, Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng đã trình bày báo cáo về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch năm 2015 của ngành Xây dựng.

Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng phát biểu tại Hội nghị.

Báo cáo của Bộ trưởng nêu rõ: Ngành Xây dựng bước vào thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2014 trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp, kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo; trong nước kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng kinh tế có bước phục hồi nhưng môi trường kinh doanh và năng suất, hiệu quả của nền kinh tế còn thấp; chất lượng, hiệu quả, năng lực sản xuất, năng lực cạnh tranh của Ngành và của một số sản phẩm chủ yếu còn hạn chế; các doanh nghiệp ngành Xây dựng vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển…

Trước những khó khăn, thách thức như trên, ngay từ đầu năm Bộ Xây dựng đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Chính phủ số 01/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2014; nghiêm túc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp được nêu trong Nghị quyết liên quan đến các lĩnh vực của Ngành. Trong đó, đã tập trung cao độ hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý nhà nước theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cải cách hành chính; đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch xây dựng; tăng cường quản lý đầu tư xây dựng, kiểm soát phát triển đô thị theo quy hoạch và kế hoạch; tiếp tục thực hiện đồng bộ, kiên định các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản gắn với thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia, đặc biệt là nhà ở xã hội; thực hiện tái cơ cấu ngành Xây dựng... và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Về đảm bảo các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu của ngành Xây dựng: Các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu của ngành Xây dựng vẫn duy trì được sự tăng trưởng theo kế hoạch đã đề ra, góp phần vào những chuyển biến tích cực của nền kinh tế đất nước. Tổng giá trị sản xuất ngành Xây dựng năm 2014 đạt 849 ngàn tỉ đồng (tăng 10,2% so với năm 2013), và nếu tính theo giá so sánh năm 2010, giá trị tăng thêm của ngành Xây dựng năm 2014 là 161,87 ngàn tỉ đồng, tăng 7,07% so với năm 2013 (cao hơn mức tăng 5,87% của năm trước), chiếm tỷ trọng 6,0% GDP cả nước (năm 2013 chiếm tỷ trọng 5,9% GDP)… Diện tích nhà ở bình quân toàn quốc đạt khoảng 20,6 m2/người, tăng 1 m2 sàn/người so với năm 2013; cả nước có 1,8 triệu m2 nhà ở xã hội.

Về quản lý phát triển nhà ở: Công tác phát triển nhà ở quốc gia tiêp tục được đẩy mạnh, ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu nhà ở người dân, đặc biệt là các đối tượng người có công, người nghèo ở khu vực thường xuyên bị bão, lũ, ngập lụt, người thu nhập thấp ở các khu đô thị có khó khăn về nhà ở. Tính đến hết năm 2014, cả nước đã hoàn thành đầu tư xây dựng 102 dự án nhà ở xã hội, trong đó có 38 dự án nhà ở cho người thu nhập thấp, quy mô xây dựng 19.686 căn hộ. Và chỉ riêng năm 2014, cả nước đã phát triển thêm 0,8 triệu m2 nhà ở xã hội, tương đương 12.000 căn hộ.

Về quản lý thị trường bất động sản: Bộ Xây dựng đã tích cực chủ động đề xuất, tập trung cùng với các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp thực hiện đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản gắn với thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia, đặc biệt là nhà ở xã hội và đã đạt được những kết quả quan trọng; thị trường bất động sản tiếp tục chuyển biến tích cực. Giao dịch bất động sản tăng, giá cả bất động sản ổn định, tồn kho bất động sản giảm, cơ cấu hàng hóa được điều hợp lý...

Cũng trong năm 2014, các doanh nghiệp trong ngành đã tập trung thực hiện tái cơ cấu, chủ động khắc phục khó khăn, từng bước ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm và thu nhập cho người lao động. Nhiều doanh nghiệp bất động sản đã tích cực đầu tư phát triển nhà ở xã hội, xác định đây là giải pháp đúng đắn và phù hợp, vừa mang lại lợi ích cho doanh nghiệp và người lao động, vừa góp phần tích cực đảm bảo an sinh xã hội, giúp người nghèo cải thiện chỗ ở.

Các Tổng công ty nhà nước thuộc Bộ Xây dựng đều tập trung thực hiện đề án tái cơ cấu đã được phê duyệt, trọng tâm là cổ phần hóa và thoái vốn tại các dự án đầu tư ngoài lĩnh vực kinh doanh chủ yếu. Trong năm, Bộ đã hoàn thành cổ phần hóa thêm 04 Tổng công ty (Viglacera, Viwaseen, Xây dựng Hà Nội, Xây dựng Bạch Đằng), đưa tổng số Tổng công ty đã hoàn thành cổ phần là 06/15 Tổng công ty, hiện đang tiến hành cổ phần hóa tiếp 09 Tổng công ty còn lại, dự kiến hoàn thành trong năm 2015. Các Tổng công ty đã và đang tiến hành thoái vốn tại 54 danh mục thoái vốn với giá trị 2.377 tỷ đồng, đạt 47,1% kế hoạch thoái vốn.

Công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước, đầu tư xây dựng, phát triển đô thị và nông thôn, phát triển vật liệu xây dựng, cải cách thủ tục hành chính... cũng đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhiều thay đổi mang tính đột phá góp phần quan trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của ngành, tích cực chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư, xây dựng, nâng cao chất lượng công trình...

Bên cạnh những kết quả tích cực trên, Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng cũng chỉ ra nhiều tồn tại, hạn chế như chất lượng công trình còn thấp, tình trạng thất thoát, lãng phí, chậm tiến độ thi công, nợ đọng xây dựng cơ bản còn bức xúc; thị trường bất động sản tuy có chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn khó khăn, tồn kho bất động sản vẫn ở mức cao; phát triển nhà ở chưa được quan tâm đúng mức, chưa thu hút được các doanh nghiệp tham gia đầu tư...

Phát biểu tham luận tại Hội nghị, đại diện lãnh đạo các địa phương như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Lâm Đồng, Vĩnh Phúc, Điện Biên, Cần Thơ... đã đánh giá cao những kết quả mà ngành Xây dựng đã đạt được trong năm 2014. Đặc biệt, lãnh đạo Bộ đã thường xuyên, sâu sát với các hoạt động của địa phương nên những khó khăn, vướng mắc hay các kiến nghị đều được giải quyết nhanh chóng, kịp thời. Công tác xây dựng, hoàn thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực Xây dựng được triển khai kịp thời góp phần quan trọng tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội các địa phương. Sự có mặt của Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng và các Cục, Vụ chuyên môn của Bộ Xây dựng tại các điểm nóng như sự cố sập hầm Đạ Dâng đã góp phần không nhỏ giải quyết, khắc phục các sự cố một cách an toàn, kịp thời, được dư luận đánh giá cao.

Tuy nhiên, đại diện các địa phương cũng chỉ ra rằng, khó khăn thách thức trong năm 2015 còn rất lớn, trong đó có công tác quy hoạch đô thị, di dân tái định cư, chất lượng công trình xây dựng... Chính vì vậy, lãnh đạo các địa phương cũng bày tỏ mong muốn, trong năm 2015, Bộ Xây dựng sẽ tiếp tục quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ địa phương giải quyết các vướng mắc, khó khăn trong lĩnh vực Xây dựng, tạo nền tảng quan trọng thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế-xã hội không chỉ của địa phương mà của cả nước.

Cảm ơn sâu sắc những đánh giá tốt đẹp cũng như ý kiến đóng góp của đại diện lãnh đạo các địa phương đố với ngành Xây dựng, Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng nhấn mạnh: Trong năm 2015, Bộ Xây dựng sẽ tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật trong lĩnh vực quản lý ngành, trong đó trọng tâm là xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành các Luật mới được Quốc hội thông qua năm 2014; đổi mới và tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát trong đầu tư xây dựng; thực hiện đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản gắn với thực hiện Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia; tổ chức thực hiện đề án tái cơ cấu ngành Xây dựng; tăng cường thanh tra, kiểm tra chuyên ngành xây dựng, tích cực phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Ngành…

Với những giải pháp như trên, cùng với sự ủng hộ, vào cuộc quyết liệt của các địa phương, Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng bày tỏ tin tưởng: Năm 2015 sẽ là năm gặt hái được nhiều thành công của ngành xây dựng, đóng góp hiệu quả cho công cuộc tái cơ cấu và tạo đột phá phát triển cho nền kinh tế.

Một số chỉ tiêu của ngành Xây dựng phấn đấu đạt được trong năm 2015:

- Tỉ lệ đô thị hóa đạt khoảng 35,5%.

- Tỷ lệ quy hoạch vùng tỉnh đạt 100%, quy hoạch chung đạt 100%, quy hoạch phân khu đạt khoảng 72-75%, quy hoạch chi tiết 1/500 đạt khoảng 35%, quy hoạch xây dựng nông thôn đạt 100%.

- Diện tích bình quân nhà ở toàn quốc đạt khoảng 21,5m2 sàn/người.

- Giá trị sản xuất xây dựng toàn Ngành (tính theo giá hiện hành) tăng khoảng 10% so với năm 2014.

Thanh Ngọc (tổng hợp)

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC HCM 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC ĐN 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 ▲600K 76,100 ▲500K
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 ▲600K 76,000 ▲500K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
Cập nhật: 19/04/2024 17:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.000 ▼100K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 19/04/2024 17:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,465 ▲30K 7,670 ▲20K
Trang sức 99.9 7,455 ▲30K 7,660 ▲20K
NL 99.99 7,460 ▲30K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,440 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,530 ▲30K 7,700 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,530 ▲30K 7,700 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,530 ▲30K 7,700 ▲20K
Miếng SJC Thái Bình 8,190 ▼20K 8,370 ▼30K
Miếng SJC Nghệ An 8,190 ▼20K 8,370 ▼30K
Miếng SJC Hà Nội 8,190 ▼20K 8,370 ▼30K
Cập nhật: 19/04/2024 17:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,800 ▼300K 83,800 ▼300K
SJC 5c 81,800 ▼300K 83,820 ▼300K
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,800 ▼300K 83,830 ▼300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 ▲100K 76,700 ▲100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 ▲100K 76,800 ▲100K
Nữ Trang 99.99% 74,700 ▲100K 76,000 ▲100K
Nữ Trang 99% 73,248 ▲99K 75,248 ▲99K
Nữ Trang 68% 49,335 ▲68K 51,835 ▲68K
Nữ Trang 41.7% 29,345 ▲42K 31,845 ▲42K
Cập nhật: 19/04/2024 17:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 19/04/2024 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,093 16,193 16,643
CAD 18,251 18,351 18,901
CHF 27,564 27,669 28,469
CNY - 3,475 3,585
DKK - 3,585 3,715
EUR #26,662 26,697 27,957
GBP 31,303 31,353 32,313
HKD 3,175 3,190 3,325
JPY 161.41 161.41 169.36
KRW 16.64 17.44 20.24
LAK - 0.9 1.26
NOK - 2,266 2,346
NZD 14,752 14,802 15,319
SEK - 2,274 2,384
SGD 18,245 18,345 19,075
THB 637.43 681.77 705.43
USD #25,183 25,183 25,473
Cập nhật: 19/04/2024 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 19/04/2024 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16131 16181 16583
CAD 18297 18347 18753
CHF 27805 27855 28267
CNY 0 3479 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26851 26901 27412
GBP 31459 31509 31976
HKD 0 3140 0
JPY 162.71 163.21 167.75
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14795 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18528 18528 18889
THB 0 649.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 19/04/2024 17:45