Ngành ngân hàng đồng hành cùng doanh nghiệp

13:42 | 19/05/2017

926 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Đào Minh Tú, việc giảm chi phí của các ngân hàng thương mại nằm trong chương trình chung của nhiều năm qua và các ngân hàng thương mại cũng đã rất tích cực thực hiện nhằm giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
nganh ngan hang dong hanh cung doanh nghiep
PVcomBank là ngân hàng đã triển khai nhiều gói tín dụng cho vay ưu đãi với khách hàng là doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Tại Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp ngày 17/5, Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng cho biết, mặt bằng lãi suất hiện nay đã giảm mạnh, chỉ bằng 40% lãi suất cuối năm 2011. Thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất- kinh doanh để có điều kiện giảm lãi suất cho vay, đặc biệt quan tâm đến lãi suất ưu đãi đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực ưu tiên.

Theo Thống đốc Lê Minh Hưng, tăng trưởng tín dụng năm 2016 đạt 18,25%. Năm 2017, tín dụng tăng trưởng tốt ngay từ đầu năm, đến cuối tháng 4/2017, tín dụng tăng 5,76% so với cuối năm 2016, cao hơn so với cùng kỳ các năm gần đây, trong đó tín dụng VNĐ tăng 5,87% và tín dụng ngoại tệ tăng 4,64%.

Trong thời gian tới, ngành ngân hàng sẽ tiếp tục tập trung vốn vào lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên, trong đó đặc biệt là các dự án hiệu quả, các doanh nghiệp, dự án đầu tư có chiều sâu, ứng dụng khoa học công nghệ để sản xuất các sản phẩm thương hiệu Việt Nam cạnh tranh được trong khu vực và thị trường thế giới; các doanh nghiệp sản xuất theo chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp sạch, các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV).

Đồng thời, NHNN sẽ tiếp tục nghiên cứu, đổi mới cách thức cấp tín dụng theo hướng có sự chọn lọc ưu tiên phân loại doanh nghiệp, góp phần vào các chương trình tái cơ cấu sản xuất.

Về điều hành lãi suất và mong muốn đề nghị hạ lãi suất tín dụng của doanh nghiệp, Thống đốc Lê Minh Hưng cho biết, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay diễn biến ổn định từ năm 2016 đến nay, đặc biệt từ cuối tháng 9/2016, một số TCTD đã giảm 0,3- 0,5%/năm lãi suất huy động, giảm 0,5- 1%/năm lãi suất cho vay đối với sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên.

“Như vậy, mặt bằng lãi suất hiện nay đã giảm mạnh, chỉ bằng 40% lãi suất cuối năm 2011, phù hợp với mục tiêu điều hành, diễn biến tiền tệ và lạm phát, đồng thời đảm bảo hài hòa lợi ích của người gửi tiền, TCTD và khách hàng vay” - Thống đốc Lê Minh Hưng khẳng định.

Tại buổi họp báo, trả lời câu hỏi của phóng viên về tạo điều kiện về vốn cho các DNNVV phát triển, việc tăng cường vốn cho các đối tượng này có đi ngược với những mục tiêu đặt ra là làm thế nào hạn chế tối đa việc giảm tỉ lệ nợ xấu và giảm rủi ro cho các ngân hàng, Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho rằng: Không có gì là ngược, đây là việc hết sức đồng thuận. Giảm chi phí có nhiều hình thức, nhưng có một việc thiết yếu là làm thế nào giảm lãi suất cho vay, tạo điều kiện cho DNNVV.

Lý giải thêm về câu hỏi của phóng viên, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông cho rằng, dường như có cảm giác rằng mở rộng cho vay đối với DNNVV là nguyên nhân dẫn đến nợ xấu, cần phải làm rõ vấn đề này. Thống kê trong thời gian qua cho thấy, nợ xấu ở khu vực DNNVV rất thấp. Ở Agribank, tỉ lệ nợ xấu cho vay đúng đối tượng DNNVV và những đối tượng nông nghiệp, nông dân và nông thôn thì nợ xấu lúc cao nhất là dưới 2% và sau đó xuống dưới 1,5%. Còn theo số liệu mới nhất, Ngân hàng Chính sách xã hội (VBSP) là nơi cho người nghèo vay vốn, đây là các đối tượng khó khăn trong xã hội, nhưng tỉ lệ nợ xấu dưới 1,5%, đây là tỉ lệ nợ xấu rất thấp. "Nói vậy để chúng ta đừng hiểu lầm cho DNNVV vay nhiều thì dẫn đến nợ xấu", ông Đông nhấn mạnh.

Tại cuộc họp báo, phóng viên đặt câu hỏi về chương trình tín dụng 100.000 tỷ đồng để phục vụ phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Tuy nhiên, có một vấn đề là chúng ta vừa phải tiến hành giải cứu lợn, trước đó thì giải cứu dưa hấu, vải... Một nền nông nghiệp còn khá manh mún, nhỏ lẻ nhưng hình như có dấu hiệu sản xuất thừa. Khi chúng ta tiếp tục đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao thì bài toán thừa sẽ được giải quyết như thế nào?

Trả lời câu hỏi trên, Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho biết, về việc giải cứu lợn, dưa hấu, chúng ta đã có quá nhiều thông tin. Vấn đề này cũng được làm rất rõ rồi. Chính phủ cũng như các bộ, ngành rất quyết liệt xử lý, đã có hiệu quả trong thời gian gần đây rồi.

Phó Thống đốc cho rằng, về phía ngân hàng, theo chỉ đạo của Chính phủ cũng như sự phối hợp rất chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì ngành ngân hàng chủ động dành ra 100.000 tỷ đồng, nhưng không phải cứ để riêng 100.000 tỷ đồng để chờ cho vay, khi nào dự án cũng như các DN có nhu cầu và thấy có hiệu quả có thể giải ngân thì mới thực hiện giải ngân.

“Việc sử dụng 100.000 tỷ đồng chương trình tín dụng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của các DN ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp là một định hướng chủ đạo, xu hướng hết sức cần thiết trong lúc này bởi có thực hiện được mục tiêu, yêu cầu này thì sản phẩm trong nông nghiệp mới có thể cạnh tranh được không chỉ ở trong nước mà còn trên thế giới” - Phó Thống đốc nói.

Lý giải thêm về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông cho rằng: Lợn, dưa hấu, vải không phải là sản xuất nhỏ mà là sản xuất lớn theo quy mô của tổng sản phẩm, nhưng nhỏ theo khía cạnh là các hộ sản xuất nhỏ lẻ.

Theo Thứ trưởng Đặng Huy Đông: Thứ nhất, cần phát triển theo tư duy cụm liên kết ngành và chuỗi giá trị, tất cả những người giỏi nhất, DN tốt nhất, công nghệ tốt nhất trong chuỗi giá trị được tham gia để nâng cao tính cạnh tranh cả về chất lượng và giá cả. Thứ hai là phải vào tổ chức, đặc biệt là các DN nhỏ, các hộ kinh doanh thì phải vào tổ chức, có thể là hiệp hội, có thể là hợp tác xã (HTX), Liên hiệp HTX để có những tổ chức pháp nhân chính thức giúp bước ra thị trường một cách chững chạc, ngang ngửa về sức mạnh so với các DN trên thương trường trong nước cũng như quốc tế.

N.Q

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,650 83,850 ▲200K
AVPL/SJC HCM 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
AVPL/SJC ĐN 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 76,100
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 76,000
AVPL/SJC Cần Thơ 81,650 83,850 ▲200K
Cập nhật: 20/04/2024 18:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 83.800
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 83.800
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 83.800
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 ▲100K 84.000 ▲200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 20/04/2024 18:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,475 ▲10K 7,680 ▲10K
Trang sức 99.9 7,465 ▲10K 7,670 ▲10K
NL 99.99 7,470 ▲10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,450 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
Miếng SJC Thái Bình 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Nghệ An 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Hà Nội 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Cập nhật: 20/04/2024 18:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 ▲200K 84,000 ▲200K
SJC 5c 82,000 ▲200K 84,020 ▲200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 ▲200K 84,030 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 76,700
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 76,800
Nữ Trang 99.99% 74,700 76,000
Nữ Trang 99% 73,248 75,248
Nữ Trang 68% 49,335 51,835
Nữ Trang 41.7% 29,345 31,845
Cập nhật: 20/04/2024 18:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 20/04/2024 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,001 16,021 16,621
CAD 18,177 18,187 18,887
CHF 27,419 27,439 28,389
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,542 3,712
EUR #26,237 26,447 27,737
GBP 30,905 30,915 32,085
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.25 160.4 169.95
KRW 16.3 16.5 20.3
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,228 2,348
NZD 14,723 14,733 15,313
SEK - 2,253 2,388
SGD 18,116 18,126 18,926
THB 637.47 677.47 705.47
USD #25,150 25,150 25,473
Cập nhật: 20/04/2024 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 20/04/2024 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16131 16181 16583
CAD 18297 18347 18753
CHF 27805 27855 28267
CNY 0 3479 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26851 26901 27412
GBP 31459 31509 31976
HKD 0 3140 0
JPY 162.71 163.21 167.75
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14795 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18528 18528 18889
THB 0 649.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 20/04/2024 18:00