Ngăn ngừa DN FDI bỏ trốn: Cẩn trọng từ khâu cấp phép
TS Phạm Hùng Tiến.
PV: Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến nay đã có hơn 500 DN FDI bỏ trốn khỏi Việt Nam. Theo ông nguyên nhân nào khiến có tình trạng các DN bỏ trốn?
TS Phạm Hùng Tiến: Nguyên nhân sâu sa khiến DN bỏ trốn xuất phát từ năng lực tài chính yếu kém. Họ gặp khó khăn trong quá trình vận hành dự án, làm ăn thua lỗ nên phải dừng dự án. Nếu nhà đầu tư tốt, họ sẽ thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với Nhà nước, với người lao động. Ngược lại, nhà đầu tư “xấu” sẽ bỏ trốn khỏi Việt Nam.
Bên cạnh đó nhiều nhà đầu tư đã xác định vấn đề đạo đức kinh doanh không rõ ràng, nhiều DN FDI chỉ kinh doanh trong thời gian ân hạn thuế tối đa 275 ngày, họ làm ăn chụp giật, đến thời gian phải nộp thuế là họ biến mất.
Nhiều dự án đã có biểu hiện dùng những bộ chứng từ xuất nhập khẩu để vay tại ngân hàng thương mại của chúng ta rồi ôm tiền về nước và chúng ta không thể tìm được tung tích nhà đầu tư.
PV: Hướng xử lý với hơn 500 DN FDI này như thế nào, thưa ông?
TS Phạm Hùng Tiến: Trước hết chúng ta phải tìm hiểu nguyên nhân vì sao họ bỏ trốn hay tạm ngừng kinh doanh. Trong trường hợp xác định họ bỏ trốn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có Văn bản số 7566/BKHDT-PC hướng dẫn việc thu hồi giấy chứng nhận đầu tư các trường hợp vắng chủ đối với dự án chưa triển khai thực hiện hoặc dự án vắng chủ đã có các phán quyết của toà án.
Sau khi quyết định tòa án có hiệu lực, cơ quan thi hành án sẽ bán đấu giá tài sản của các DN bỏ trốn này. Tuy nhiên, các trường hợp khác chưa có hướng dẫn xử lý.
PV: Vậy công tác quản lý thời gian tới nên được tiến hành như thế nào để không tái diễn tình trạng này?
TS Phạm Hùng Tiến: Phải có giải pháp tổng thể, bắt đầu từ thẩm định hồ sơ. Kinh nghiệm của nước ngoài cho thấy cách tốt nhất là trước hết phải kiểm tra năng lực của nhà đầu tư dự án kinh doanh, tức tính khả thi của dự án và dự án phải đảm bảo được tình hình kinh doanh tốt trong 3 năm đầu tiên. Thứ hai thẩm tra rõ về người điều hành dự án đó, tức là các nhà đầu tư nước ngoài. Thứ ba là liên lạc với các công ty mẹ có công ty con hoạt động ở Việt Nam.
Sau khi thẩm định 3 đối tượng trên chúng ta mới cấp giấy phép đầu tư. Đó là cách chọn lọc tốt nhất.
Ngoài ra, trong quá trình triển khai dự án, cơ quan quản lý nên thường xuyên kiểm tra, giám sát dưới nhiều hình thức như vấn đề vệ sinh môi trường, an toàn lao động, thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước Việt Nam. Thông qua các hình thức kiểm tra này, cơ quan quản lý sẽ nắm bắt được tình hình thực tế của DN để có giải pháp xử lý. Nếu để DN bán hết máy móc, nợ lương người lao động rồi cơ quan quản lý mới ra tay giải quyết là có lỗi. Việc này cũng rất cần có sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước ở địa phương cũng như Trung ương.
Bên cạnh đó, ngay giai đoạn đầu họ vận hành dự án, chúng ta nên tạo cho họ nhiều cơ hội để liên kết với kinh tế của địa phương, doanh nghiệp địa phương và các nhà cung cấp dịch vụ để giúp họ tháo gỡ khó khăn, nếu có. Giả sử họ có trụ sở tại khu công nghiệp, ban quản lý cần quan tâm đến họ nhiều hơn nữa.
PV: Được biết ông cũng tìm hiểu nhiều về môi trường đầu tư ở Đức và có nhiều mối quan hệ với các DN Đức, vậy cách nước Đức phòng tránh việc DN FDI bỏ trốn như thế nào, thưa ông?
TS Phạm Hùng Tiến: Ở Đức cơ quan thụ lý đăng kí kinh doanh sẽ kiểm tra một dự án đầu tư trên 3 phương diện. Một là bản kế hoạch kinh doanh phải có viễn cảnh trong 3 năm tới. Thứ hai họ sẽ phối hợp với phòng thương mại và công nghiệp địa phương của nước đi đầu tư. Thứ ba công ty đi đầu tư sẽ phải báo cáo tình hình tài chính của công ty mẹ trong 3 năm gần nhất. Nhìn chung họ nhấn mạnh tính khả thi của dự án đầu tư.
Xin cảm ơn ông!
Lương Thu Mai (thực hiện)
-
Tin tức kinh tế ngày 28/3: Gần 74.000 doanh nghiệp rút khỏi thị trường trong quý I
-
Phê duyệt 14 ngân hàng quan trọng nhất hệ thống năm 2024
-
Đề xuất Quốc hội cho phép thi hành Luật Đất đai từ ngày 1/7/2024
-
Nhà báo Nguyễn Văn Minh được bổ nhiệm làm Tổng Biên tập Báo Công Thương
-
Giá các mặt hàng xăng dầu đồng loạt tăng nhẹ