Mảng tối trong hoạt động của DNNN

21:40 | 01/02/2015

787 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Trong những năm qua, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã có những đóng góp hết sức quan trọng vào phát triển kinh tế-xã hội đất nước nhưng theo Bộ Tài chính, đằng sau những kết quả đó, hoạt động của DNNN cũng đang tồn tại không ít bất cập.

 

Đầu tư lưới điện ở các xã vùng sâu, vùng xa là nhiệm vụ chính trị của ngành điện.

Theo “Báo cáo tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2013 của các doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp” của Bộ Tài chính, tính đến hết năm 2014, cả nước có 796 doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Trong đó có 8 Tập đoàn kinh tế; 100 tổng công ty nhà nước (không bao gồm Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam); 25 Công ty TNHH MTV hoạt động theo mô hình Công ty mẹ-Công ty con; 309 Công ty TNHH MTV độc lập hoạt động trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ, sản phẩm công ích; 354 Công ty TNHH MTV độc lập hoạt động sản xuất kinh doanh thương mại.

Năm 2013, trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế, hầu hết các doanh nghiệp vẫn trì hoạt động sản xuất, kinh doanh, đóng góp nguồn thu cho ngân sác nhhà nước, giữ vững mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô năm 2013 ở mức tăng trưởng GDP đạt 5,42%, kiểm soát tỉ lệ lạm phát ở mức 6,04% (mức thấp nhất trong giai đoạn 2003-2013). Cụ thể: Tổng doanh thu của các doanh nghiệp đạt hơn 1,7 triệu tỉ đồng, tăng 1% so với năm 2012, trong đó, 8 Tập đoàn đạt gần 990 ngàn tỉ đồng, tăng 8% so với năm 2012; vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp là hơn 1,1 triệu tỉ đồng, tăng 15% so với năm 2012; tổng doanh thu của các doanh nghiệp đạt trên 1,7 triệu tỉ đồng; nộp ngân sách nhà nước đạt 276 ngàn tỉ đồng, tăng 23% so với năm 2012... Đặc biệt, năm 2013, các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước đã nộp ngân sách đạt trên 253 ngàn tỉ đồng, tăng 25% so với năm 2012.

Đánh giá hoạt động của DNNN, Bộ Tài chính cho rằng, trong năm 2012, 2013, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, các DNNN đã có nhiều cố gắng thực hiện nhiệm vụ được giao, hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh và năng lực cạnh tranh của DNNN, nhất là các Tập đoàn, Tổng công ty vẫn duy trì, bảo toàn và phát triển vốn nhà nước góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế. Các DNNN vẫn đóng vai trò thực hiện nhiệm vụ cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, một số lĩnh vực như năng lượng, kết cấu hạ tầng, dịch vụ viễn thông vẫn phát huy được thế mạnh trong nền kinh tế thị trường...

Bên cạnh những đánh giá tích cực, Bộ Tài chính cũng chỉ ra một loạt những tồn tại, bất cập trong quá trình hoạt động của DNNN. Cụ thể:

DNNN hoạt động chung với doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác theo quy định tại Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư nhưng lại chưa giải quyết được các vấn đề đặt thù đặt ra liên quan đến sự tồn tại, vận hành của DNNN.

Việc sử dụng các công cụ quản lý nhà nước đối với DNNN bằng các văn bản dưới Luật nên dễ thay đổi, hiệu lực thực thi không cao, làm giảm hiểu quả của quản lý nhà nước đối với DNNN nói chung và gây khó cho hoạt động kiểm soát, giám sát của nhà nước đối với việc sử dụng các nguồn lực tại DNNN cũng như việc bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ chính trị, cung ứng dịch vụ sản phẩm công ích, an ninh, quốc phòng.

Cơ chế, chính sách về quản lý DNNN chưa phân tách giữa nhiệm vụ kinh doanh và nhiệm vụ công ích, chưa đảm bảo cho các DNNN được hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực có mức sinh lời thấp mà khu vực kinh tế tư nhân không muốn hoặc không đủ sức tham gia nhưng cần thiết cho nền kinh tế.

Việc xác định trách nhiệm của người đứng đầu khi xảy ra sai phạm cũng như việc xử lý các hành vi vi phạm về giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động đối với DNNN chưa được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc và triệt để. Vì vậy, hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước đối với DNNN nói chung cũng như hoạt động giám sát của nhà nước đối với việc sử dụng các nguồn lực thuộc sở hữu nhà nước đầu tư tại DNNN chưa cao.

Bên cạnh những bất cập trên, hoạt động của các DNNN cũng tồn tại không ít bất cập, qua đó làm giảm hiệu quả hoạt động trong sản xuất kinh doanh. Theo Bộ Tài chính thì đó là tình trạng chậm đổi mới, không nắm bắt kịp thời nhu cầu phát triển thị trường, cũng như xu thế hội nhập; năng lực quản trị của nhiều doanh nghiệp không đáp ứng được yêu cầu quản lý, giám sát các nguồn lực được giao. Các Tập đoàn, Tổng công ty mở rộng sản xuất, đầu tư theo chiều rộng mà chưa chú trọng đến chiều sâu hoặc đầu tư quá khả năng thu xếp vốn của mình, dẫn đến hiệu quả và sức cạnh tranh thấp.

Ngoài ra, việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh chưa được chú trọng, công tác phát triển ngành, lĩnh vực, sản phẩm còn bất cập, yếu kém, thiếu tích dự báo, liên kết... với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước...

Từ những bất cập, tồn tại trên, Bộ Tài chính cho rằng phải hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý DNNN, đẩy mạnh quá trình sắp xếp, cổ phần hoá DNNN, triển khai và thực hiện có hiệu quả đề án tái cơ cấu DNNN.

Thanh Ngọc

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC HCM 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC ĐN 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 ▲600K 76,100 ▲500K
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 ▲600K 76,000 ▲500K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
Cập nhật: 19/04/2024 14:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.000 ▼100K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 19/04/2024 14:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,465 ▲30K 7,680 ▲30K
Trang sức 99.9 7,455 ▲30K 7,670 ▲30K
NL 99.99 7,460 ▲30K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,440 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,530 ▲30K 7,710 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,530 ▲30K 7,710 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,530 ▲30K 7,710 ▲30K
Miếng SJC Thái Bình 8,200 ▼10K 8,380 ▼20K
Miếng SJC Nghệ An 8,200 ▼10K 8,380 ▼20K
Miếng SJC Hà Nội 8,200 ▼10K 8,380 ▼20K
Cập nhật: 19/04/2024 14:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,800 ▼300K 83,800 ▼300K
SJC 5c 81,800 ▼300K 83,820 ▼300K
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,800 ▼300K 83,830 ▼300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 ▲100K 76,700 ▲100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 ▲100K 76,800 ▲100K
Nữ Trang 99.99% 74,700 ▲100K 76,000 ▲100K
Nữ Trang 99% 73,248 ▲99K 75,248 ▲99K
Nữ Trang 68% 49,335 ▲68K 51,835 ▲68K
Nữ Trang 41.7% 29,345 ▲42K 31,845 ▲42K
Cập nhật: 19/04/2024 14:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 19/04/2024 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,037 16,137 16,587
CAD 18,212 18,312 18,862
CHF 27,540 27,645 28,445
CNY - 3,475 3,585
DKK - 3,578 3,708
EUR #26,603 26,638 27,898
GBP 31,205 31,255 32,215
HKD 3,175 3,190 3,325
JPY 161.52 161.52 169.47
KRW 16.63 17.43 20.23
LAK - 0.9 1.26
NOK - 2,261 2,341
NZD 14,713 14,763 15,280
SEK - 2,266 2,376
SGD 18,221 18,321 19,051
THB 637.06 681.4 705.06
USD #25,183 25,183 25,473
Cập nhật: 19/04/2024 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 19/04/2024 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16070 16120 16525
CAD 18252 18302 18707
CHF 27792 27842 28255
CNY 0 3478.9 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26795 26845 27351
GBP 31362 31412 31872
HKD 0 3140 0
JPY 162.88 163.38 167.92
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14751 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18509 18509 18866
THB 0 649.6 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 19/04/2024 14:00