Giải pháp cho giá điện nông thôn phía nam

08:00 | 02/04/2015

681 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Tổng Công ty Điện lực miền Nam đang bán điện trực tiếp đến hơn 4,3 triệu hộ dân nông thôn trên địa bàn 21 tỉnh, thành phía nam, chiếm tỷ lệ 87,88% tổng số hộ nông thôn. Số hộ dân nông thôn còn lại (559.350 hộ) do các tổ chức điện nông thôn mua buôn điện của ngành điện và bán lẻ đến các hộ dân phía sau công tơ bán buôn của ngành điện. Tập trung phần lớn tại 3 tỉnh An Giang, Bình Thuận và Trà Vinh.

Năng lượng Mới số 409

Ông Nguyễn Phước Đức, Trưởng ban Kinh doanh, Tổng Công ty Điện lực miền Nam cho biết, xuất phát từ thực tế mô hình quản lý và kinh doanh điện nông thôn của những tổ chức ngoài hệ thống ngành điện có nhiều bất cập, đặc biệt là giá bán điện không thống nhất, tình trạng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và chất lượng điện năng yếu kém ở khu vực họ quản lý. Người dân nông thôn phải trả giá điện cao, cá biệt có nơi giá điện cao hơn giá quy định 5-6 lần.

Thi công lưới điện nông thôn ở xã Mỹ Hiệp, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp

Những khó khăn đang đặt ra hiện nay đối với việc quản lý điện khu vực nông thôn tại các tỉnh, thành phía nam theo ông Nguyễn Phước Đức là bất cập về chênh lệch giá mua buôn - bán lẻ. Ông Đức lý giải, cơ cấu giá mua và bán điện của các tổ chức điện nông thôn theo các Thông tư về giá bán điện của Chính phủ từ trước đến nay vẫn tăng ổn định khoảng 5%, nhưng xét về giá trị tuyệt đối thì mức chênh lệch này ngày càng lớn, điều này dẫn đến lợi nhuận của các tổ chức điện nông thôn ngày càng tăng cao. Cụ thể, mức chênh lệch tăng giữa giá mua buôn và bán lẻ qua các lần điều chỉnh giá điện trước đây theo Thông tư 42/2011/TT-BCT là 355,43 đồng/kWh; Thông tư 17/2012/TT-BCT là 375,29 đồng/kWh; Thông tư 38/2012/TT-BCT là 394,28 đồng/kWh; Thông tư 19/2013/TT-BCT là 412,43 đồng/kWh.

Theo ông Đức, các tổ chức điện nông thôn có lợi nhuận cao từ chênh lệch này và lợi nhuận họ hưởng lại chính là phần bù lỗ tại khu vực nông thôn mà ngành điện phải gánh chịu. Trong khi đó, người dân nông thôn không được hưởng lợi gì từ cơ chế giá bán buôn điện nông thôn của Chính phủ. Mặt khác,  phần lớn các tổ chức điện nông thôn không đầu tư xây dựng mới lưới điện hoặc cải tạo lưới điện nông thôn để đáp ứng nhu cầu sử dụng điện sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp ở khu vực có mật độ dân cư thấp, khu vực người dân nông thôn còn nhiều khó khăn, vùng sâu, vùng xa và sử dụng điện với mức độ thấp, do ngại vốn đầu tư lớn và không có khả năng sinh lời...

 Hiện nay, Tổng Công ty Điện lực miền Nam đang phải đầu tư vốn rất lớn để xây dựng lưới điện cao áp từ 220kV/110kV xuống đến hạ áp 0,4kV, đồng thời chịu thêm phần tổn hao điện năng trên lưới điện (khoảng 5%) để bán điện cho các tổ chức điện nông thôn với giá bán bình quân thấp hơn giá mua điện của EVN (chưa tính chi phí quản lý và truyền tải điện...). “Các chi phí này sẽ ích lợi hơn cho Nhà nước và cho xã hội nếu ngành điện bán điện trực tiếp và sử dụng khoản chênh lệch (giữa bán buôn và bán trực tiếp) này để đầu tư phát triển hệ thống điện trên địa bàn nông thôn”, ông Đức đề nghị.

Trong quản lý điện nông thôn ở khu vực các tỉnh miền Nam, bên cạnh bất cập về giá bán buôn điện còn khó khăn về nguồn vốn đầu tư cấp điện đến các hộ dân nông thôn.

Hầu hết các khu vực nông thôn chưa có điện trên địa bàn Tổng Công ty Điện lực miền Nam quản lý đều ở những khu vực vùng sâu vùng xa, có mật độ dân cư thưa thớt, sống không tập trung theo quy hoạch và chưa có đường giao thông chính. Vì vậy, việc đầu tư xây dựng lưới điện gặp rất nhiều trở ngại. Đơn cử như công tác đầu tư cấp điện gặp rất nhiều khó khăn do phải kéo đường dây dài, trạm phân phối non tải nên suất đầu tư cấp điện cho các hộ dân này quá lớn (khoảng 20-50 triệu đồng/hộ). Người dân sinh sống không theo quy hoạch nên việc xây cất nhà ở khá phức tạp làm ảnh hưởng đến việc xây dựng lưới điện, hướng tuyến đường dây cong queo do phải tránh nhà làm phát sinh thêm chiều dài và tăng giá thành đầu tư. Trong khi đó, công tác quản lý sửa chữa lưới điện rất khó khăn do không có đường giao thông. Lưới điện vận hành thường ở chế độ non tải gây tổn thất điện năng lớn. Công tác thu tiền điện cũng gặp nhiều khó khăn không kém, có nơi chi phí cho việc thu tiền điện nhiều hơn doanh thu bán điện…

Mặt khác, do nguồn vốn ngân sách của đa số các địa phương đều có hạn, nên hầu hết các địa phương đều từ chối bố trí, cân đối ngân sách địa phương để thực hiện một phần tiêu chí điện nông thôn. Ông Nguyễn Phước Đức cho biết, các cấp chính quyền địa phương chỉ hứa hỗ trợ kịp thời và hiệu quả trong công tác quy hoạch sử dụng quỹ đất cho xây dựng lưới điện, giải quyết nhanh chóng các thủ tục về cấp đất, đền bù, giải phóng mặt bằng…

Trên thực tế, khối lượng đầu tư lưới điện cho khu vực nông thôn là rất lớn và không hiệu quả, do đó việc sắp xếp bố trí vốn cho khu vực nông thôn gặp rất nhiều khó khăn. Và thực tế đang chứng minh rằng Chương trình tiếp nhận lưới điện hạ áp để bán điện trực tiếp đã đem lại lợi ích to lớn cho người dân nông thôn tại khu vực tiếp nhận và các khu vực lân cận. Cụ thể, người dân ở nông thôn được hưởng sự công bằng với người dân thành thị về giá bán điện; được đảm bảo về mặt an toàn điện, chất lượng điện áp, chất lượng phục vụ được nâng cao và không phải đóng tiền để duy tu bảo dưỡng lưới điện. Bên cạnh đó, Chương trình cũng góp phần giảm một phần bù lỗ của ngành điện đối với việc bán điện ở khu vực nông thôn.

Trong những năm qua, Tổng Công ty Điện lực miền Nam đã tiếp nhận lưới điện hạ áp nông thôn để bán điện trực tiếp tận hộ sử dụng điện. Hiện nay, toàn tổng công ty có 14 tỉnh/thành phố, ngành điện bán trực tiếp đến 100% hộ sử dụng điện, gồm: Lâm Đồng, Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, Bến Tre, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Thành phố Cần Thơ, Hậu Giang và Đồng Nai. Tại các tỉnh là Tiền Giang, Ninh Thuận, Đồng Tháp và Vĩnh Long cũng được tiếp nhận và bán trực tiếp đến phần lớn hộ sử dụng điện. Hiện chỉ còn 3 tỉnh có khối lượng công tơ bán buôn lớn và chưa bàn giao lưới điện hạ áp nông thôn cho ngành điện quản lý là An Giang, Bình Thuận và Trà Vinh.

Việt Hà