Người Phát ngôn Chính phủ trả lời một số vấn đề báo chí, dư luận quan tâm

18:16 | 01/04/2015

1,245 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Xin trân trọng giới thiệu nội dung trả lời của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ - Người Phát ngôn của Chính phủ đối với một số vấn đề mà báo chí và dư luận quan tâm.

Ảnh minh họa

1. Một số ý kiến cho rằng chủ trương mua lại các ngân hàng thua lỗ của NHNN có hiệu quả chưa rõ ràng trong khi NHNN lại phải ôm vào một khoản nợ xấu lớn, rất khó xử lý và nguy cơ mất vốn cao. Xin hỏi quan điểm của Chính phủ về vấn đề này?

Trả lời:

Sự phát triển lành mạnh của hệ thống ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với sự ổn định và phát triển bền vững của nền kinh tế.

Khi ngân hàng thương mại gặp khó khăn, thua lỗ, Ngân hàng Nhà nước cần có biện pháp xử lý phù hợp như yêu cầu tự tái cấu trúc; thực hiện hợp nhất, sáp nhập, mua lại tự nguyện hoặc bắt buộc; Ngân hàng Nhà nước trực tiếp hoặc chỉ định ngân hàng thương mại Nhà nước mua lại cổ phần, vốn góp của ngân hàng thương mại yếu kém, bảo đảm sự an toàn, ổn định, trật tự của hệ thống ngân hàng thương mại, thị trường tài chính và quyền lợi của người gửi tiền theo quy định.

Việc can thiệp bắt buộc của Ngân hàng Nhà nước thông qua mua, tiếp quản ngân hàng thương mại yếu kém để xử lý, cơ cấu lại chỉ được thực hiện khi ngân hàng yếu kém không có khả năng tự tái cơ cấu, không sáp nhập, hợp nhất tự nguyện được hoặc trong trường hợp chỉ định ngân hàng thương mại nhà nước mua lại, nhận sáp nhập sẽ có tác động tiêu cực trực tiếp đến tình hình tài chính, hoạt động của ngân hàng thương mại nhà nước. Trong khi đó, việc áp dụng biện pháp phá sản ngân hàng trong bối cảnh hiện nay, qua phân tích và đánh giá cụ thể từng trường hợp cho thấy tổn thất cho Nhà nước và xã hội là rất lớn và có thể gây mất an toàn hệ thống.

Việc Ngân hàng Nhà nước mua, tiếp quản ngân hàng thương mại yếu kém là cách làm phù hợp thông lệ quốc tế, nhiều nước trong khu vực và trên thế giới cũng đã áp dụng. 

 Trong giai đoạn hiện nay, quan điểm xử lý, cơ cấu lại các tổ chức tín dụng theo Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng đã được phê duyệt là phù hợp, bảo đảm tránh gây đổ vỡ ngoài tầm kiểm soát và giữ ổn định hệ thống.

Việc Ngân hàng Nhà nước mua lại bắt buộc toàn bộ cổ phần của ngân hàng yếu kém và chuyển thành ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước (như áp dụng đối với Ngân hàng Xây dựng vừa qua) được thực hiện  theo quy định của pháp luật (Điều 149 Luật các Tổ chức tín dụng, Quyết định số 48/2013/QĐ-TTg hướng dẫn chi tiết về việc góp vốn, mua cổ phần bắt buộc của tổ chức tín dụng bị kiểm soát đặc biệt). Đây là biện pháp mạnh, khẳng định quyết tâm của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước kiên quyết xử lý triệt để, tái cơ cấu những tổ chức này, đồng thời cảnh báo trách nhiệm của các cổ đông nói chung, nhất là các cổ đông lớn trong việc quản trị, điều hành, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng. 

Sau khi mua lại ngân hàng yếu kém, Ngân hàng Nhà nước sẽ triển khai đồng bộ các giải pháp xử lý những tồn tại, yếu kém và cơ cấu lại toàn diện, nhất là về quản trị, điều hành, chiến lược kinh doanh phù hợp hơn, lành mạnh hoá tài chính, xử lý nợ xấu để thu hồi vốn cho ngân hàng. Nợ xấu của các ngân hàng yếu kém (phần lớn có liên quan hoặc có tài sản bảo đảm là bất động sản) sẽ được thu hồi, xử lý triệt để bằng các biện pháp cơ cấu lại, xử lý phù hợp với sự hỗ trợ hiệu quả của các cơ quan chức năng trong bối cảnh kinh tế vĩ mô đang phát triển ổn định thuận lợi, cùng với đó các hoạt động kinh doanh mới của ngân hàng sẽ tạo lợi nhuận bù đắp các tổn thất còn lại (nếu có).     

Nguồn vốn để xử lý, tái cơ cấu các tổ chức tín dụng yếu kém chủ yếu là nguồn vốn huy động trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Quan điểm nhất quán của Chính phủ là không sử dụng ngân sách nhà nước để cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung và mua lại, xử lý ngân hàng yếu kém nói riêng. Trong trường hợp phải bỏ tiền ra để mua cổ phần của ngân hàng yếu kém thì Ngân hàng Nhà nước sử dụng nguồn vốn của Ngân hàng Nhà nước theo quy định của pháp luật. Tất cả số tiền này sẽ được thu hồi sau thời gian tái cơ cấu lành mạnh tình hình tài chính bằng chính lợi nhuận của các ngân hàng này cũng như bán lại số cổ phần đã mua cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

2. Một số ý kiến chưa đồng tình với việc điều chỉnh tăng giá điện vừa qua của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) vì cho rằng EVN thiếu minh bạch trong giá điện; nếu Bộ Công Thương chỉ dựa vào báo cáo của EVN để quyết định cho tăng giá thì mới đứng về phía doanh nghiệp, chưa quan tâm lợi ích của người tiêu dùng. Xin cho biết quan điểm của Chính phủ về vấn đề này?

Trả lời:

Trong những năm vừa qua, Bộ Công Thương đã chỉ đạo tích cực thực hiện việc công khai, minh bạch đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh điện.

Thực hiện Quyết định 24/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về điều chỉnh giá bán điện theo cơ chế thị trường, từ năm 2011 Tổ công tác liên ngành gồm đại diện các bộ, cơ quan liên quan, trong đó có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hiệp hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã triển khai công tác kiểm tra giá thành sản xuất, kinh doanh điện. Căn cứ vào kết quả kiểm tra, Bộ Công Thương thay mặt Tổ công tác liên ngành đã tổ chức họp báo, công bố, gửi cho các cơ quan báo chí và đăng tải công khai trên trang web của Bộ các nội dung về giá thành sản xuất kinh doanh điện, chi phí các khâu phát điện, truyền tải, phân phối bán lẻ điện, chi phí điều hành quản lý và dịch vụ phụ trợ hệ thống; kết quả hoạt động (lỗ/lãi) của sản xuất, kinh doanh điện; các khoản còn treo chưa được phân bổ vào giá điện.

Việc điều chỉnh giá bán điện ngày 16/3 vừa qua là cần thiết và căn cứ vào giá thành sản xuất, kinh doanh điện năm 2013 đã được kiểm toán độc lập và kiểm tra của Tổ công tác liên ngành; chi phí ước thực hiện năm 2014, trong đó các yếu tố tăng giảm chi phí đầu vào như tăng giá than, giá khí, tỷ giá, thuế tài nguyên nước, giá mua điện từ các nhà máy thủy điện nhỏ; chỉ có giá dầu là giảm. Đồng thời bảo đảm phù hợp với Quyết định 69/2013/QĐ-TTg về cơ chế điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân, Quyết định số 2165/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân các năm 2013-2015.

Phương án điều chỉnh giá cũng được các Bộ: Công Thương, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Ngân hàng Nhà nước thống nhất. Đây cũng là phương án tăng thấp và ít tác động đến kinh tế - xã hội; dự tính chỉ làm tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2015 khoảng 0,18% - 0,23%; ngân sách nhà nước hỗ trợ tiền điện cho các hộ nghèo, hộ chính sách xã hội sẽ tăng thêm mỗi năm khoảng 150 tỷ đồng. Đối với một số ngành sản xuất có mức tiêu thụ điện cao như thép, xi măng, ước tính tỷ lệ tăng giá thành khoảng 0,07% - 0,66%.

3. Việc điều chỉnh đồng thời giá điện và giá xăng dầu cùng một lúc được nhận định là chưa hợp lý vì tạo sức ép gia tăng lạm phát, ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân và hoạt động của doanh nghiệp. Xin cho biết Chính phủ có ý kiến gì về việc điều chỉnh này?

Trả lời:

Điện và xăng dầu là hai mặt hàng rất quan trọng đối với nền kinh tế; cơ chế quản lý, điều chỉnh giá phải tuân thủ quy trình, thủ tục, nguyên tắc theo quy định của pháp luật. Giá bán xăng dầu được thực hiện theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước.

Hiện nay, việc điều hành giá xăng dầu đã cơ bản theo cơ chế thị trường; giá bán lẻ xăng dầu trong nước được điều chỉnh trên cơ sở biến động giá xăng dầu thế giới, kết hợp với các công cụ điều tiết thuế và quỹ bình ổn giá xăng dầu, đáp ứng yêu cầu chỉ đạo, điều hành kinh tế -xã hội theo quy định tại Nghị định 83/2014/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu.

Việc điều chỉnh giá điện, giá xăng dầu cùng trong tháng 3/2015 vừa qua đã được các cơ quan có thẩm quyền cân nhắc thận trọng, ngoài biến động các yếu tố chi phí đầu vào (có tăng, có giảm) còn đánh giá tác động của việc điều chỉnh giá đến kinh tế, xã hội, trên cơ sở đó lựa chọn phương án có tác động bất lợi thấp nhất và hỗ trợ người tiêu dùng điện ở mức phù hợp. Trong bối cảnh chỉ số giá tiêu dùng năm 2014 và những tháng đầu năm 2015 ở mức thấp, việc điều chỉnh giá điện, xăng dầu này không ảnh hưởng nhiều đến ổn định kinh tế vĩ mô. Đợt điều chỉnh giá xăng dầu ngày 11/3/2015 ước tính làm tăng CPI của tháng 3/2015 khoảng 0,04%; việc điều chỉnh giá điện ước tính làm tăng CPI năm 2015 khoảng 0,18% - 0,23% như đã nêu trên.

4. Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam (VAMI) có văn bản “kêu cứu” gửi tới các cơ quan chức năng về hiện tượng ô tô tải nhập khẩu nguyên chiếc đang tràn vào Việt Nam, gây bất lợi cho sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước. Nguyên nhân là mức thuế suất thuế nhập khẩu nguyên chiếc xe tải và linh kiện về lắp ráp trong nước chưa phù hợp. Xin cho biết chủ trương của Chính phủ về vấn đề này?

Trả lời:

Năm 2014, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển công nghiệp ô tô Việt Nam đến 2025, tầm nhìn đến 2035 và Quy hoạch phát triển công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Theo đó, dự báo năm 2020 có khoảng hơn 3 triệu xe lưu hành, tổng số xe sản xuất trong nước đạt khoảng 230 nghìn chiếc. Trong quý I vừa qua, ô tô tải nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu là xe có tải trọng lớn mà trong nước chưa sản xuất, lắp ráp được.

Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo triển khai thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp theo Chiến lược và Quy hoạch nêu trên, trong đó giao Bộ Công Thương chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan rà soát các quy định về thuế, phí (thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc và linh, phụ kiện; thuế tiêu thụ đặc biệt...) và đề xuất cơ chế chính sách cụ thể, thúc đẩy sản xuất trong nước, bảo đảm khả thi, ổn định lâu dài và phù hợp với các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập, trình Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay, Bộ Công Thương và Bộ Tài chính đang tích cực thực hiện chỉ đạo nêu trên của Thủ tướng Chính phủ.

5. Công tác thu mua, tạm trữ lúa gạo gặp nhiều khó khăn, đạt hiệu quả không cao do doanh nghiệp, thương lái lương thực chưa vào cuộc tích cực. Xin cho biết Chính phủ có giải pháp gì trước tình trạng này?

Trả lời:

Việc Chính phủ quyết định mua tạm trữ 1 triệu tấn quy gạo trong thời điểm thu hoạch rộ nhằm hỗ trợ nông dân tiêu thụ lúa gạo, nâng cao thu nhập cho người trồng lúa, bình ổn giá, góp phần khắc phục tình trạng “được mùa mất giá”.

Ngay sau khi quyết định của Thủ tướng Chính phủ về mua tạm trữ thóc gạo vụ Đông Xuân 2014 - 2015 được ban hành, Hiệp hội Lương thực Việt Nam đã tổ chức triển khai, thu hút được 128 thương nhân tham gia. Đến nay, các thương nhân đã mua được khoảng 80%.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thành lập Đoàn liên ngành để kiểm tra, giám sát việc thực hiện tại các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long và sẽ sớm có báo cáo kết quả thực hiện.

Đồng thời với việc thực hiện chủ trương mua tạm trữ, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương, Hiệp hội và các doanh nghiệp đẩy mạnh xúc tiến thương mại xuất khẩu gạo, tăng cường đàm phán, ký kết hợp đồng Chính phủ để xuất khẩu vào các thị trường tập trung truyền thống và các thị trường đã có thỏa thuận hợp tác về thương mại gạo. Về dài hạn, Chính phủ đã giao Bộ Công Thương xây dựng Chiến lược xuất khẩu gạo của Việt Nam gắn với Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp.

6. Chuyển nhượng quyền khai thác hạ tầng giao thông được xem là chủ trương đúng đắn, nhất là trong điều kiện nguồn lực nhà nước còn hạn chế, phải dành vốn đầu tư công để tập trung vào các nhiệm vụ quan trọng khác; tuy nhiên có ý kiến lo ngại khi doanh nghiệp tư nhân nắm giữ các công trình hạ tầng như hạ tầng hàng không thì sẽ phát sinh tình trạng độc quyền. Chính phủ có giải pháp gì để bảo đảm công bằng, minh bạch, quản lý hiệu quả các công trình này?

Trả lời:

Trong bối cảnh nguồn lực nhà nước còn hạn chế, việc huy động vốn xã hội dưới nhiều hình thức phù hợp để đầu tư kết cấu hạ tầng, trong đó có hạ tầng giao thông là hết sức cần thiết. Việc huy động nguồn lực xã hội để đầu tư, kinh doanh, chuyển nhượng quyền khai thác kết cấu hạ tầng mà ngành Giao thông vận tải đã và đang thực hiện đối với một số dự án, công trình là giải pháp cụ thể hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng công trình, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, nâng cao chất lượng dịch vụ; đồng thời đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn Nhà nước để tiếp tục đầu tư các dự án hạ tầng quan trọng, cấp bách khác.

Trong quá trình triển khai, Bộ Giao thông vận tải đã chú trọng bảo đảm vai trò quản lý của Nhà nước, kiểm soát độc quyền, công khai, minh bạch; hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng; không làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước.

Đối với hạ tầng hàng không, sau khi nhượng quyền khai thác, các cơ quan chức năng vẫn thực hiện đầy đủ quyền quản lý nhà nước đối với việc sử dụng, khai thác hạ tầng hàng không; nắm giữ tất cả các hoạt động liên quan đến bảo đảm an ninh quốc phòng, quản lý bay, vùng trời; thực hiện cấp phép hoạt động của các hãng hàng không...

Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, trong đó có Bộ Giao thông vận tải tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý, tạo thuận lợi cho việc triển khai thực hiện và đáp ứng các yêu cầu đề ra.

7. Về đề xuất tịch thu phương tiện đối với người điều khiển ôtô, xe máy, xe điện sử dụng rượu bia của Uỷ ban An toàn Giao thông Quốc gia, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã yêu cầu Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp các Bộ Công an, Tư pháp nghiên cứu đề xuất này, báo cáo Thủ tướng trước 31/3. Xin cho biết, Thủ tướng đã nhận được báo cáo chưa và chỉ đạo như thế nào?

Trả lời:

Việc xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ hiện đang được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 171/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt và Nghị định số 107/2014/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 171.

Thực hiện chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu báo cáo Thủ tướng Chính phủ: Đề xuất của Uỷ ban An toàn giao thông Quốc gia là có cơ sở pháp lý, phù hợp với Điều 14 của Hiến pháp 2013 và được quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính, Nghị định số 171/2013/NĐ-CP. Tuy nhiên, cần có thời gian tuyên truyền, phổ biến, vận động tạo sự đồng thuận cao trong xã hội và người dân. Vì vậy, tại thời điểm hiện nay, các Bộ đề nghị chưa áp dụng hình thức tịch thu phương tiện đối với hành vi vi phạm nêu trên.

Tại phiên họp thường kỳ tháng 3, Chính phủ đã thảo luận và thống nhất chưa thực hiện biện pháp tịch thu phương tiện đối với hành vi vi phạm này; giao Bộ GTVT chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Tư pháp và các bộ, ngành liên quan tổ chức tổng kết, đánh giá việc triển khai thực hiện Nghị định 171/2013/NĐ-CP, Nghị định 107/2014/NĐ-CP, trên cơ sở đó, xây dựng dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định này cho phù hợp với thực tiễn, bảo đảm tính khả thi, trình Chính phủ trong năm 2015.

Đồng thời, cho phép tạm thời chưa áp dụng xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định về tải trọng trục xe ô tô chở hàng hóa được quy định tại Nghị định 171/2013/NĐ-CP và Nghị định 107/2014/NĐ-CP của Chính phủ cho đến khi Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của hai Nghị định có hiệu lực.

8. Việc cải tạo, thay thế cây xanh đô thị tại Hà Nội vừa qua không nhận được sự đồng tình của dư luận. Đề nghị Người phát ngôn Chính phủ cho biết quan điểm và giải pháp về vấn đề này?

Trả lời:

Việc quản lý cây xanh đô thị được quy định tại Nghị định số 64/2010/NĐ-CP của Chính phủ. Theo đó, UBND các tỉnh, thành phố có trách nhiệm quản lý toàn bộ cây xanh trên địa bàn. Nghị định cũng quy định rõ 3 loại cây được chặt hạ, dịch chuyển là: Cây đã chết, đã bị đổ gãy hoặc có nguy cơ gãy đổ gây nguy hiểm; cây bị bệnh hoặc đến tuổi già cỗi không đảm bảo an toàn; cây trong các khu vực thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình.

Việc chặt hạ, thay thế cây xanh của TP Hà Nội vừa qua đã không được dư luận đồng tình, gây bức xúc xã hội. Trước tình hình này, UBND TP Hà Nội đã có chỉ đạo dừng triển khai kế hoạch và tiến hành thanh tra, kiểm tra làm rõ để có biện pháp xử lý theo quy định.

UBND TP Hà Nội đã có báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ về tình hình chặt hạ, thay thế cây xanh vừa qua và đề xuất các giải pháp xử lý. Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ đạo yêu cầu UBND TP Hà Nội: (1) Khẩn trương thanh tra, làm rõ, kết luận và xử lý nghiêm trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân theo quy định; (2) Rà soát, đánh giá các biện pháp, cách thức tổ chức thực hiện; kịp thời điều chỉnh biện pháp, cách làm không phù hợp, khắc phục những tồn tại, bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện; (3) Tăng cường quản lý cây xanh đô thị trên địa bàn TP Hà Nội theo đúng quy định; (4) Thông tin kịp thời, đầy đủ, công khai, minh bạch và tiếp thu ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học, nhân dân, tạo sự đồng thuận trước khi thực hiện.

9. Việc tỉnh Đồng Nai cho phép doanh nghiệp lấn sông Đồng Nai để xây dựng dự án ở thành phố Biên Hòa gây bức xúc trong dư luận. Xin cho biết Chính phủ đã chỉ đạo việc này thế nào?

Trả lời:

Về việc này, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã chỉ đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Xây dựng, Giao thông vận tải, UBND tỉnh Đồng Nai và các cơ quan liên quan kiểm tra việc thực hiện, đánh giá tác động của dự án, xử lý theo thẩm quyền và quy định của pháp luật hiện hành; đề xuất xử lý những vấn đề vượt thẩm quyền, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 5/2015.

Các Bộ và UBND tỉnh Đồng Nai đang tích cực triển khai ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng. UBND tỉnh Đồng Nai đã quyết định dừng triển khai dự án này để thẩm định tính pháp lý và đánh giá, làm rõ hơn các tác động của dự án.

Trên cơ sở báo cáo của các Bộ và UBND tỉnh Đồng Nai, Thủ tướng Chính phủ sẽ có ý kiến về việc này.

10. Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank) và công ty Him Lam đưa ra Đề án phát triển cây mắc-ca tại Việt Nam với quy mô trồng 200.000 ha tại Tây Nguyên trong 5 năm tới. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên cũng đã có văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ đề xuất bổ sung cây mắc-ca vào nhóm cây nông, công, lâm nghiệp mũi nhọn cần được ưu tiên phát triển giai đoạn tới tại Việt Nam. Một số chuyên gia cho rằng, nên thận trọng khi trồng ồ ạt cây mắc-ca để tránh những hệ luỵ như mất giá, không có thị trường tiêu thụ…

 Xin cho biết Chính phủ có quan điểm như thế nào về việc này?

Trả lời:

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cây mắc-ca có thể trồng được ở nước ta và đã được trồng khảo nghiệm thành công ở một số nơi. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã công nhận đưa vào sản xuất 10 giống và Chính phủ đã có chính sách khuyến khích tại Nghị định số 210/2013/NĐ-CP.

Tuy nhiên, việc trồng mắc-ca ở Tây Nguyên với quy mô 200 nghìn ha như Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank) và công ty Him Lam đề xuất cần phải cân nhắc thận trọng. Hiện nay, trên thế giới sau nhiều năm phát triển mới chỉ có khoảng 80 nghìn ha.

Đối với đề nghị của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên về việc xem xét bổ sung cây mắc-ca vào nhóm cây nông, công nghiệp mũi nhọn cần được ưu tiên phát triển, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương nghiên cứu, xử lý các đề xuất, kiến nghị của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên; báo cáo Thủ tướng Chính phủ những vấn đề vượt thẩm quyền.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang lập quy hoạch phát triển cây mắc-ca, trước mắt dự kiến tới năm 2020 phát triển với quy mô khoảng 10 nghìn ha, chủ yếu ở những địa bàn đã khảo nghiệm thành công, có hiệu quả ở Tây Bắc và Tây Nguyên và chỉ trồng những giống được Bộ công nhận, bao gồm cả trồng tập trung và trồng xen trong các vườn cà phê.

11. Hiện nay Bộ Công Thương và Hiệp hội Mía Đường đang có quan điểm trái ngược nhau về việc cấp phép nhập khẩu cho đường được sản xuất tại Lào của Công ty Hoàng Anh Gia Lai (Bộ Công Thương cho rằng ngành đường thiếu sức cạnh tranh, chi phí sản xuất cao nên giá thành cao, nguyên  nhân là do dựa vào bảo hộ; Hiệp hội Mía đường cho rằng chính sách xuất nhập khẩu đường có bất cập, chỉ phục vụ lợi ích nhóm, ảnh hưởng đến sản xuất trong nước). Xin cho biết quan điểm của Chính phủ về vấn đề này?

Trả lời:

Chính phủ luôn chủ trương thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị toàn diện với nước bạn Lào. Sau các thoả thuận tại kỳ họp 37 Uỷ ban liên Chính phủ Việt - Lào tháng 1 vừa qua, hai nước đã ký Hiệp định thương mại tháng 3/2015 và đang khẩn trương tiếp tục đàm phán Hiệp định biên mậu, trong đó sẽ đề cập tới quản lý hạn ngạch nhập khẩu đường sản xuất tại Lào của Công ty Hoàng Anh Gia Lai để phù hợp với tính chất quan hệ đặc biệt giữa hai nước.

Cơ chế quản lý nhập khẩu đường được thực hiện theo Nghị định 187/2013/NĐ-CP của Chính phủ, trong đó đường thuộc danh mục quản lý nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan, bảo đảm phù hợp với cam kết quốc tế, hài hòa lợi ích giữa người sản xuất và người tiêu dùng, khuyến khích người sản xuất cải tiến quản lý, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao năng suất, sức cạnh tranh của sản phẩm mía đường trong nước.

Theo đó, việc nhập khẩu đường từ Lào của Công ty Hoàng Anh Gia Lai đã được Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công Thương thống nhất với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề xuất phương án điều hành nhập khẩu đường, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

12. Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh đã chỉ đạo UBND tỉnh Quảng Nam kiểm tra thông tin báo chí phản ánh 1.250 con gà hỗ trợ người nghèo tại xã Quế An, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Đề nghị Người phát ngôn Chính phủ cho biết kết quả?

Trả lời:

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh, UBND tỉnh Quảng Nam đã kiểm tra và đã có báo cáo Thủ tướng Chính phủ (báo cáo số: 34/BC-UBND ngày 31 tháng 3 năm 2015 của UBND tỉnh Quảng Nam).

Theo kết quả điều tra, xác minh thì thông tin báo chí nêu cơ bản là đúng sự thật. Một số cán bộ xã Quế An, huyện Quế Sơn đã có sai phạm. Theo chỉ đạo của UBND tỉnh, Chính quyền địa phương đã kiểm điểm, khắc phục, xử lý sai phạm. Đã thu hồi tiền và kiểm điểm tập thể, cá nhân có liên quan, đồng thời đã và đang xử lý kỷ luật đối với cán bộ, đảng viên, công chức vi phạm theo quy định.

13. Gần đây, liên tiếp xảy ra các vụ tai nạn lao động, điển hình như vụ ở dự án Đường sắt trên cao (Hà Nội), dự án Formosa Hà Tĩnh... Xin Người Phát ngôn Chính phủ cho biết phải chăng công tác quản lý, giám sát thi công của Việt Nam có vấn đề dù đã được cảnh báo từ lâu hay do các chủ đầu tư nhận thầu với giá thấp nên công tác thi công, an toàn không được bảo đảm?

Trả lời:

Hệ thống văn bản pháp luật về an toàn lao động đã được ban hành khá đầy đủ, như: Nghị định 45/2013/NĐ-CP điều tiết về an toàn lao động, vệ sinh lao động; Quy chuẩn QCVN 18:2014/BXD về an toàn trong xây dựng và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Theo chức năng nhiệm vụ, ngành Lao động - Thương binh và Xã hội cùng các cơ quan quản lý nhà nước vẫn thường xuyên kiểm tra an toàn lao động trên công trường. Chẳng hạn, tại dự án Formosa Hà Tĩnh, trong năm 2014 Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh và Sở Xây dựng Hà Tĩnh đã nhiều lần kiểm tra công tác bảo đảm an toàn lao động tại đây và đã xử phạt trên 1 tỷ đồng.

Theo pháp luật trong mọi trường hợp, chủ đầu tư và nhà thầu phải chịu trách nhiệm chính về vấn đề an toàn lao động, không phụ thuộc vào giá bỏ thầu. Bộ Xây dựng cũng đã ban hành Thông tư số 04/2010/TT-BXD về hướng dẫn lập và quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình, trong đó có chi phí quản lý về an toàn lao động.

Ngay sau khi xảy ra các sự cố, tai nạn lao động ở dự án đường sắt trên cao, sập đường hầm thủy điện Đạ Dâng ở Lâm Đồng, dự án Formosa Hà Tĩnh, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan liên quan tập trung khắc phục sự cố; kiểm tra, đánh giá, xác định nguyên nhân cụ thể để xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân liên quan theo quy định của pháp luật.

Để tăng cường quản lý về chất lượng, hạn chế các sự cố, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Xây dựng trình Chính phủ xem xét ban hành Nghị định về quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng theo quy định của Luật Xây dựng năm 2014, trong đó quy định cụ thể, chi tiết việc quản lý chất lượng công trình. Yêu cầu các bộ, ngành, địa phương chỉ đạo các cơ quan chức năng tăng cường kiểm tra, thanh tra, bảo đảm thực hiện nghiêm các quy định về an toàn lao động, chất lượng công trình. 

Bộ Xây dựng đang tích cực thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và kiến nghị bổ sung một số giải pháp sau: Cơ quan chuyên môn về xây dựng sẽ tăng cường kiểm soát an toàn vệ sinh lao động kết hợp với kiểm tra chất lượng công trình xây dựng; tăng cường kiểm tra, thanh tra, kiên quyết xử phạt nghiêm vi phạm về an toàn lao động trong hoạt động xây dựng; công khai thông tin các nhà thầu và vi phạm của nhà thầu trong hoạt động xây dựng; cấm đấu thầu hoặc trừ điểm trong quá trình đấu thầu nếu vi phạm về an toàn lao động; ban hành các quy định kiểm định nghiêm ngặt đối với các thiết bị, máy, vật tư trong thi công xây dựng trong đó có hệ thống giàn giáo.

14. Từ khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành Thông tư 32 năm 2014 đến nay, tốc độ cho vay và giải ngân với gói 30.000 tỷ có tăng hay không, con số cụ thể đến nay là bao nhiêu? Các ngân hàng mới tham gia vào gói 30.000 tỷ đã cam kết hay giải ngân được khoản cho vay nào chưa? NHNN có biện pháp gì sắp tới để thúc đẩy giải ngân gói cho vay này?

Trả lời:

Từ 1/6/2013 đến 31/10/2014 (sau 16 tháng áp dụng Thông tư 11) có 9.376 khách hàng được ký hợp đồng tín dụng trong gói tín dụng hỗ trợ nhà ở với tổng số tiền cam kết cho vay từ các ngân hàng đạt 7.357,7 tỷ đồng.

Sau khi ban hành Thông tư 32, tốc độ cho vay, giải ngân tăng liên tục, tháng sau cao hơn tháng trước. Đến 28/2/2015 (sau khoảng 4 tháng triển khai), số khách hàng được các ngân hàng cam kết cho vay theo gói 30.000 tỷ là 14.895 khách hàng (tăng 5.519 khách hàng), với tổng số tiền cam kết cho vay là 11.307,2 tỷ đồng, tăng khoảng 53,7% so với thời điểm 31/10/2014.

Thời gian tới, để đẩy nhanh tiến độ giải ngân gói tín dụng này, NHNN sẽ thực hiện các giải pháp:

- Theo dõi chặt chẽ tình hình thực hiện của các NHTM tham gia chương trình và có văn bản chỉ đạo kịp thời, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ giải ngân.

- Xem xét khả năng mở rộng số lượng NHTM tham gia.

- Đề nghị Bộ Xây dựng có văn bản hướng dẫn, tháo gỡ vướng mắc về các quy định, thủ tục liên quan đến đối tượng vay vốn đặc biệt là đối tượng mua, cải tạo nhà ở; có biện pháp tích cực đẩy nhanh nguồn cung về nhà ở xã hội, nhà ở thương mại với giá rẻ.

15. Thời gian qua, tỷ giá trên thị trường có nhiều biến động, tăng mạnh. Trong Nghị quyết số 01/NQ-CP, Chính phủ chỉ đạo việc điều hành tỷ giá phù hợp và trong năm 2015, NHNN khẳng định vẫn giữ mục tiêu điều hành tỷ giá đô la Mỹ trong biên độ không quá 2%. Xin cho biết thời gian tới, Chính phủ có chỉ đạo điều chỉnh tỷ giá hay không?

Trả lời:

Diễn biến tỷ giá có xu hướng tăng trên thị trường hiện nay chủ yếu là do yếu tố tâm lý, còn các yếu tố về kinh tế cơ bản không có biến động lớn và không đáng quan ngại.

Việc tiếp tục điều chỉnh tỷ giá cần được cân nhắc thận trọng trên cơ sở đánh giá tác động trên nhiều mặt đến nền kinh tế như: (i) Mức độ cải thiện xuất khẩu so với tác động tăng chi phí nhập khẩu; (ii) Sức ép gia tăng lạm phát; (iii) Ảnh hưởng đến nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ và doanh nghiệp.

Trên cơ sở đánh giá tổng thể các vấn đề nêu trên, NHNN sẽ tiếp tục bám sát diễn biến trên thị trường ngoại tệ, cán cân thanh toán quốc tế, tình hình kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước, điều hành tỷ giá theo mục tiêu đề ra từ đầu năm để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Chính phủ và chính sách tiền tệ của NHNN.

16. Tình trạng khan hiếm vắc-xin dịch vụ vẫn diễn ra phổ biến ở nhiều điểm tiêm chủng dịch vụ, có ý kiến cho rằng nhu cầu tiêm chủng dịch vụ tăng cao do người dân không còn niềm tin vào Chương trình tiêm chủng mở rộng. Xin cho biết Chính phủ đã có biện pháp chỉ đạo giải quyết vấn đề này chưa?

Trả lời:

Hiện nay, ở Việt Nam tiêm chủng được thực hiện dưới 2 hình thức là tiêm chủng mở rộng và tiêm chủng dịch vụ.

Tiêm chủng mở rộng được đảm bảo bằng kinh phí của Nhà nước để triển khai tiêm chủng miễn phí 10 loại vắc xin phòng 12 loại bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ở trẻ em. Vắc xin tiêm chủng mở rộng được kiểm nghiệm đảm bảo chất lượng trước khi đưa vào Chương trình tiêm chủng mở rộng. Nhờ có Chương trình này (đã thực hiện trên 20 năm) mà Việt Nam đã thanh toán được bệnh Bại liệt,  loại trừ Uốn văn sơ sinh và giảm tỷ lệ mắc, chết, cứu sống hàng triệu trẻ em Việt Nam. Hàng năm, có khoảng 1,5 triệu trẻ em Việt Nam đi tiêm chủng trong Chương trình Tiêm chủng mở rộng ở các điểm tiêm trên toàn quốc. Chương trình Tiêm chủng mở rộng luôn cung cấp đầy đủ vắc xin ở các điểm tiêm của Chương trình.

 Tiêm chủng dịch vụ là tiêm chủng theo nhu cầu của người dân, thực hiện ở các điểm tiêm chủng dịch vụ, chủ yếu tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Ước tính có khoảng 200.000 trẻ tiêm dịch vụ hàng năm (chiếm khoảng 8% trong tổng số trẻ trong độ tuổi tiêm chủng). Vắc xin tiêm dịch vụ được nhập khẩu từ nước ngoài. Trong thời gian qua, tình trạng khan hiếm vắc xin dịch vụ chủ yếu xẩy ra đối với vắc xin Pentaxim (vắc xin 5 trong 1) và Infanrix Hecxa (vắc xin 6 trong 1) phòng các bệnh Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván - Bại liệt – Viêm não màng não do Heamophilus influenza typ B – Viêm gan B, do các nhà cung ứng không đáp ứng đủ đơn đặt hàng của Việt Nam.

Bộ Y tế đang chỉ đạo triển khai các giải pháp để giải quyết tình trạng khan hiếm vắc xin dịch vụ. Yêu cầu các nhà nhập khẩu vắc xin, các điểm tiêm dịch vụ phải chủ động có kế hoạch đặt hàng với đối tác nước ngoài; Bộ Y tế tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhập khẩu vắc xin nhanh nhất. Bố trí các điểm Tiêm chủng mở rộng tại các cơ sở tiêm chủng dịch vụ để kịp thời tiêm chủng cho trẻ em theo đúng lịch.

PV (tổng hợp)

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc