"Kỷ lục" buồn về đẻ ở Tây Bắc

06:55 | 21/02/2013

6,428 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Đến giờ, ngay cả bà Lò Thị Ương cũng vẫn chưa hình dung ra nổi, làm sao bà có thể vượt cạn 18 lần thành công. 9 đứa con gái, 9 đứa con trai ra đời trong khốn khó, vậy mà chúng đều thành người cả. “Kỷ lục buồn” mà bà Ương đang nắm giữ, e rằng khó có người phụ nữ nào ở đất Tây Bắc có thể vượt qua nổi.

Sau bao năm rong ruổi khắp các tỉnh Tây Bắc, có một điều dễ nhận thấy là bà con nơi đây còn sinh đẻ rất nhiều. Họ sinh ra và lớn lên trong nghèo đói, vậy mà cái khả năng “làm tăng công dân cho bản” thì ít có phụ nữ nơi nào sánh bằng. Lần này ngược ngàn huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái, một lần nữa tôi lại phải thốt lên “không thể tin vào mắt mình nữa” khi gặp bà Lò Thị Ương ở bản Hát 2, xã Hát Lìu - mẹ của 18 người con. Đặc biệt hơn là bà đã “vượt mặt” cả những kiến thức y học về sinh sản.

Bà Ương đã vượt qua tất cả những phụ nữ đang nắm giữ “kỷ lục” về đẻ ở Tây Bắc mà tôi từng gặp là bà Giàng Thị Mái ở xã Xín Chải (Phong Thổ, Lai Châu) có 15 đứa con, bà Giàng Thị Dong ở xã Co Mạ (Thuận Châu, Sơn La) có 17 người con… Một điều dễ nhận thấy nhất trong các gia đình này là nỗi vất vả, nghèo khó và đầy gian nan của người mẹ.

Không thể nhớ hết tên các cháu

Ngày chúng tôi đến huyện Trạm Tấu, trời mưa như trút nước. Dãy núi đá cao chất ngất cũng nhuộm một màu mưa núi. Con đường từ thị xã Nghĩa Lộ vào huyện Trạm Tấu đã được rải nhựa, nhưng nó vẫn là cung đường thách thức bất cứ một tay lái nào. Những khúc cua tay áo ôm vào sườn núi đá khiến ai cũng phải sởn da gà khi qua đây. Mất nửa ngày trời vật lộn với con đường trơn trượt, chúng tôi mới vào tới nhà bà Ương.

Bà Lò Thị Ương

Ngôi nhà sàn to bề thế nằm bên dòng suối Hát ủ rũ trong mưa. Phía trong nhà nghe có tiếng người cười nói rôm rả. Ngoài cửa người ra, người vào tấp nập, tôi tưởng nhà bà Ương hôm nay có công to việc lớn gì. Biết có khách đến chơi, ông Lò Văn Khiên - chồng của bà Ương ra tận cửa đón. Người đàn ông đã gần 80 tuổi nhưng nom còn khỏe lắm. Ông vồn vã tay bắt mặt mừng, mời khách lên nhà và đỡ đồ giúp chúng tôi. Chưa biết chúng tôi là ai, ông Khiên đã kéo chúng tôi ngồi xuống sàn nhà “kin lẩu” - uống rượu. Trên sàn nhà, mấy chục con người đã ngồi kín quanh 3 mâm cơm. Già, trẻ, gái, trai đang hăng say chúc tụng nhau, tôi tưởng bản Hát 2 tổ chức lễ hội gì đó.

“Hôm nay nhà bác có việc gì mà đông người thế?”, nghe tôi hỏi vậy, cả nhà được phen cười ồ lên khiến tôi ngẩn ngơ, chẳng hiểu gì. Ông Khiên cũng lấy đó làm điều thích thú, ông rót đầy chén rượu đưa tôi và bảo: “Giữa trời mưa to gió lớn thế này, có khách đến chơi là vui lắm rồi. Thôi nào, việc giới thiệu rồi sẽ làm sau, cứ cạn hết chén này đã”... Làm vài chén cho ấm bụng, ông Khiên mới khề khà: “Tất cả những người này đều là dâu, rể, cháu chắt trong nhà tôi cả đấy. Hôm nay trời mưa, mọi người tập trung ăn uống cho vui”.

Vừa chỉ về phía mọi người, ông Khiên vừa nâng chén chúc tụng cứ như mọi người lâu lắm rồi không gặp nhau. Phong tục của người Thái là vậy, trai gái đều ngồi cùng mâm uống rượu chia vui và có khách đến cũng vậy, vừa nói chuyện vừa “kin lẩu”. Và cũng chẳng cần đợi người cha già của gia đình giới thiệu, từng người một tự giới thiệu về mình với khách lạ và mỗi lần như thế là phải cụng ly. Theo cái lệ của người Thái, khách đến chơi nhà, uống rượu là phải uống với từng người kể cả phụ nữ. Cứ như thế, tôi nâng mỏi tay mà vẫn chưa hết. Người giới thiệu là con dâu thứ hai, người giới thiệu là con gái, người bảo là con trai thứ năm, thứ sáu… Giời ạ, vốn là người đi vùng cao nhiều nên tửu lượng của tôi cũng khá, vậy mà mới chào hết nửa mâm, tôi đã chếnh choáng, không hiểu nếu đi hết cả mâm chắc là bị ngâm trong rượu luôn. Đến lượt anh Lò Văn Lói tự giới thiệu là con thứ 15 của ông Khiên và là chủ của bữa tiệc hôm nay, tôi đành xin khất, chứ chúc hết lượt dâu rể của ông bà chắc là cánh nhà báo chúng tôi khó lòng mà vững tay lái để quay ra.

Bà Ương ngồi bên cạnh nhìn con đàn, cháu đống của mình ăn uống với ánh mắt đầy tự hào và gần gũi. Bà liền bảo con cháu: “Thôi, các anh ấy vừa đi đường xa về mệt, nên để cho anh ấy nghỉ ngơi…”. Lời nói có đầy trọng lượng của bà Ương đã giúp chúng tôi có thời gian để tiếp chuyện ông bà. Và đến lúc này thì tôi mới tin, tất cả những người trong nhà này là con của ông bà cả. Ấy thế mà bà Ương vẫn tặc lưỡi tiếc rẻ vì thiếu mất mấy đứa con đang bận công tác nên không về kịp.

Bà bảo: “Nhà tôi mà đủ con, đủ cháu thì phải làm ít nhất là 15 mâm. Mỗi lần họp gia đình, tôi phải mổ riêng một con lợn vài chục cân mới đủ… Vấn lại cái khăn đội đầu, bà nhìn đàn con của mình và bảo: “Đến giờ tôi đã có 34 đứa cháu ngoại, 24 đứa cháu nội. Đó là còn chưa tính đến mấy đứa con dâu vẫn còn trong độ tuổi sinh nở. Tính tất tần tật cả dâu rể, đại gia đình nhà tôi có 92 người” - đây cũng là một kỷ lục ở nước ta. Vừa nghe cái tin thế giới tròn 7 tỉ người, có lẽ gia đình bà Ương đứng trong tốp đầu.

Chiểu theo cái lệ của người Thái nơi đây, trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng, khoảng 10 năm nữa thôi, riêng gia đình nhà bà Ương có thể đủ tự tin để thành lập bản mới. Hiện giờ, các con, cháu của bà cũng đã chiếm phần lớn bản Hát 2 rồi. Trong tổng số 18 đứa con của bà Ương, anh Lò Văn Liên là nhỏ tuổi nhất, năm nay 31. Như vậy bà Ương sinh đứa con trai út khi bà tròn 48 tuổi (một kỷ lục nữa được thiết lập).

18 lần tự mình đỡ đẻ

Giờ tôi mới có dịp nhìn kỹ người phụ nữ mà cánh xe ôm phố huyện phong cho là “người phụ nữ đẻ giỏi nhất đất Tây Bắc” này. Năm nay đã gần 80 tuổi nhưng nom bà Ương còn khỏe lắm. Mái tóc bà mới điểm bạc, búi gọn trên đầu để hở cái cổ cao với nước da sáng bóng, khuôn mặt phúc hậu, mắt còn tinh anh, trí nhớ thì tuyệt vời. Mặc dù đã trải qua 18 lần vượt cạn nhưng dáng người bà còn thon thả, chứ không sồ sề. Bà nói năng nhẹ nhàng, gương mặt phúc hậu, dáng đi khoan thai. Nói như mấy thầy tướng, bà Ương có dáng người vượng phu ích tử. Bà được ông trời phú cho sức khỏe, nay đã có con, có cháu đề huề rồi mà thỉnh thoảng bà vẫn vào rừng hái thuốc. “Tôi khỏe được đến ngày hôm nay là nhờ biết nhiều bài thuốc lá trong rừng đấy…” - bà Ương mở đầu câu chuyện về cuộc đời mình bằng một niềm tự hào.

Bà Ương và con cái trong gia đình

Bà Ương sinh năm 1934, là người Thái, sống cùng với bố mẹ ở bản Hát (ngày đó bản Hát chưa tách làm 2 bản như bây giờ). Thuở thiếu nữ, bà có tiếng là xinh đẹp và thêu thùa giỏi nhất bản. Nhà ông Khiên (SN 1933) ở cách nhà bà một tầm tiếng gọi. Cứ mỗi chiều xuống dòng suối Hát tắm, ông Khiên lại như bị bỏ bùa mê thuốc lú khi nhìn thấy bà Ương đang đứng gội đầu bên suối Hát. Những đêm đi săn về qua nhà bà Ương, đôi chân của ông Khiên như có người ghim lại ở chân nhà sàn. Đến tuổi trưởng thành, ông Khiên nom thấy lồng ngực mình đã căng chật cả áo, trái tim đập rộn ràng cảm giác yêu đương, ông đã mạnh dạn đi “ỉn xao” - tán gái. Ông bà như được trời xe duyên vậy. Họ đã đến với nhau như thể ông bà sinh ra là thuộc về nhau vậy.

Ngày đó, người Thái còn tục ở rể. Muốn đón được vợ về nhà, ông Khiên phải là một “con trâu” tốt, chứng minh với bố mẹ vợ đã. Đúng năm 1952, thị xã Nghĩa Lộ được giải phóng. Vốn là người giác ngộ cách mạng từ sớm, ông Khiên không quản ngại khó khăn, vượt 40km đường rừng ra Nghĩa Lộ học lấy cái chữ của Bác Hồ. Ngay trong năm đó, bà Ương đã cảm thấy có một sinh linh bé nhỏ đang lớn dần lên trong bụng mình. Mang tiếng là ở rể nhưng ông Khiên đi học tối ngày. Từ lúc có thai cho đến lúc đẻ, bà Ương vẫn phải làm hùng hục. Đúng hôm bà trở dạ, mẹ đẻ lại đi vắng. Chỉ có một mình bà ở nhà, bụng mang dạ chửa, bà chẳng gọi được ai giúp. Giữa mùa đông gió rét, vậy mà một mình bà tự lót ổ cho mình. Đứa con đầu tiên chào đời là con trai. Bà với tay sang cửa liếp, rút cái cật tre cắt rốn cho đứa con trai cả của mình. Khi bố mẹ đi làm nương về, đứa trẻ đã được bà tắm rửa sạch sẽ nằm gọn trong chăn ấm. Hôm ông Khiên tốt nghiệp lớp bình dân học vụ về nhà khoe với bố mẹ thì ông đón nhận tin vui là mình đã được làm bố. Ông bà đã quyết định đặt tên con là Lò Văn Ơn, để sau này đứa trẻ nhớ tới công ơn khó nhọc mà bà Ương đã vượt cạn một mình.

Trước đây bản Hát chỉ là bản nhỏ, có khoảng 20 nóc nhà. Cuộc sống của bà con còn vô cùng khó khăn. Năm nào cái đói giáp hạt cũng ùa về. Chuyện đứt bữa thường xuyên xảy ra. Mang tiếng là ở rể nhưng ông Khiên ít có thời gian giúp việc cho gia đình nhà vợ. Về bản là ông hăng hái tham gia, mở lớp bình dân học vụ, vận động bà con trong bản, trong xã đi học cái chữ Bác Hồ do chính ông là thầy giáo. Khi đứa con trai đầu tập tễnh biết đi, bà Ương đã lại thấy một mầm sống nữa đang lớn dần lên trong bụng mình. Đứa con gái thứ hai ra đời trong niềm vui khôn xiết của cả gia đình. Thế là ông bà đã có cả nếp cả tẻ, khỏi phải cố, phải mong gì về con trai hay con gái nữa.

Có lẽ ngay cả bà Ương cũng không ngờ mình lại có khả năng đẻ khỏe đến thế. Bà sinh ra và lớn lên tại bản Hát 2. Ngày nhỏ bà cũng vất vả lắm. Lên 5-6 tuổi đã phải trông em. Khi đôi chân biết trèo núi, đi nương, cái tay biết cầm cái cuốc là bà đi làm cùng bố mẹ. Ngày đó bản chưa có lớp học nên bà không biết chữ. Cuộc sống của người phụ nữ miền sơn cước khi ấy quay theo một cái vòng cố định: Đến tuổi dậy thì là lấy chồng rồi sinh con đẻ cái và làm “ma” của nhà chồng. 2 đứa con ra đời khiến cuộc sống của gia đình càng khó khăn, vất vả hơn. Bố mẹ của bà Ương ngày càng già yếu, đẻ xong chưa đầy tháng bà đã phải địu con đi làm nương, làm rẫy kiếm cái ăn. Riêng ông Khiên đi hoạt động tối ngày, chẳng mấy khi có thời gian rảnh giúp đỡ vợ con.

Mà cũng đến lạ, ngày đó ăn đói, mặc rét, làm lụng vất vả là thế mà bà Ương liên tục có bầu. Hết đứa con thứ ba, thứ tư, cho đến thứ tám lần lượt ra đời. Cứ sòn sòn 1,5 năm bà lại góp thêm một công dân nữa cho bản. 8 đứa con sàn sàn tuổi nhau Khiến bà Ương làm tối ngày cũng không lo đủ cái ăn cho chúng. Có với nhau 8 mặt con đều do một tay bà nuôi nấng, dạy bảo. Ông Khiên vẫn tiếp tục tham gia hoạt động xã hội. Biết được cái chữ nên ông được bà con bầu làm cán bộ xã.

Vợ chồng bà Lò Thị Ương

Khi đó biết sinh nhiều con là khổ nhưng bà Ương cũng không biết tìm cách nào để “hãm lại”. Mẹ chồng vốn là người giỏi bốc thuốc, bà biết vô số cây thuốc nam ở trên rừng. Là con dâu của gia đình nên bà được mẹ chồng truyền lại bài thuốc chữa vô sinh và thuốc bổ cho phụ nữ khi mang bầu. Có thể do bà uống nhiều thứ thuốc đó quá nên bà mới mắn đẻ! Bà Ương kể, cứ mỗi lần chuẩn bị lót ổ là bà vào rừng hái lá thuốc. Khi sinh hạ, bà tự tay đỡ và cắt rốn cho các con. Cả 18 đứa con đều do bà tự đỡ. Một điều khiến y học hiện đại không tin nổi. Điều này ông Khiên cũng xác nhận, cả 18 đứa con đều do bà ấy đỡ cả. Đứa con cuối cùng bà ấy sinh ra là con trai và đặt tên là Lò Văn Niên (sinh năm 1981).

Đàn con của bà Ương lớn lên trong nỗi khó nhọc, cơm không đủ no, áo không đủ mặc. Nhắc đến giai đoạn khốn khó đó, bà Ương vẫn chưa thể nào quên. Những ngày đói giáp hạt, bà hô những đứa con lớn vào rừng kiếm măng mai, cù mài, củ nâu… để giải quyết khâu đói. Đông con, chồng lại thường xuyên đi vắng nên một mình bà không thể quản lý hết được. Bà liền nghĩ ra một cách là dùng đứa lớn để quản đứa nhỏ, giống như việc phân tổ trong lớp học. Mỗi tổ có một đứa con đứng đầu. Ngay cả việc gọi con, gọi cái bà cũng phải nghĩ ra một chiêu là làm một cái mõ tre treo ở đầu hồi. Khi nào cơm nước nấu xong xuôi, bà không thể tỏa đi khắp bản để tìm chúng về. Đến bữa là bà gõ lên vài hồi mõ tre. Nếu việc gõ mõ tre chưa thấy con về, bà liền đưa 2 tay lên miệng tạo thành một cái loa, hú một hồi dài. Các con bà “bắt sóng” được mớ âm thanh quen thuộc này là biết đường về nhà.

Đẻ nhiều khổ lắm

Câu chuyện của chúng tôi bị cắt ngang khi mấy bà thông gia của bà Ương sang chơi. Các bà lại tíu tít chuyện trò. Bà Ương bảo: “Nhà tôi toàn gắn với con số 18. Tôi có tất thảy 18 con, 18 dâu, rể và 18 ông bà thông gia”. Những năm sau này, ông Khiên còn là cán bộ xã nhưng lương ba cọc, ba đồng nên ông Khiên không giúp được gì nhiều cho vợ. Không giống như phụ nữ ở dưới xuôi, phụ nữ người Thái nơi đây chỉ nghỉ sinh khoảng 1 tháng là đã địu con lên nương. Bà Ương làm lụng vất vả nhưng cuộc sống vẫn nghèo, vẫn đói. Sáng sớm tinh mơ, lúc ông mặt trời chưa thức dậy, bà đã phải ra nương. Đến khi mặt trời khuất núi mới lại xuôi dốc về bản. Theo đó, đứa trẻ trên lưng cũng dần quen với cảnh phải đi nương cùng mẹ.

18 đứa con bìu ríu khiến chẳng mấy khi bà Ương có thời gian nghỉ ngơi. Giờ đã ở cái tuổi xưa nay hiếm vợ chồng bà mới ngộ ra một điều “con đàn cháu đống” không vinh dự gì mà chỉ chuốc thêm nỗi khổ. 9 cô con gái lấy chồng xa, những người con trai ở lại bản, một số anh làm cán bộ đã tự lo được nhà cho mình. Từ lúc ông bà lấy nhau đến nay, cố lắm chỉ lo được cái ăn cho con chứ không có khả năng dựng nhà cao, cửa rộng cho con cái. Những ngày nhà có việc, ông bà đều khuyên con cháu của mình đẻ ít thôi, chứ ai cũng vỡ kế hoạch như bố mẹ thì khổ lắm. Nương rẫy ngày một ít đi và khó làm hơn. Muốn cuộc sống của con cháu mình sung sướng, việc đầu tiên phải hãm “cái máy đẻ” lại.

Linh Nhi