Nền kinh tế đã cạn kiệt nguồn lực tăng trưởng

07:30 | 02/09/2016

548 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Đây là những báo động vừa là lời cảnh tỉnh của nhiều chuyên gia kinh tế tại Hội thảo Một số chủ trương, chính sách lớn nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế được tổ chức mới đây tại Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM).

Theo TS Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện CIEM, thời gian qua, nói đổi mới nhưng chúng ta chưa thực sự đổi mới tư duy, chưa có quyết tâm chính trị đủ mạnh, còn chần chừ, do dự trong cải cách chuyển đổi sang kinh tế thị trường, kết quả là thể chế kinh tế thị trường thiếu, không đồng bộ, méo mó.

Người kém thì không thể đổi mới

Trong khi đó, GS Võ Đại Lược cho rằng, yếu tố quyết định của chuyển đổi mô hình kinh tế Việt Nam phải trọng dụng nhân tài, mấy trăm thủ khoa mà tuyển được khoảng 10% làm được vài ba năm họ ra ngoài làm việc. Du học sinh Việt Nam ở các trường đại học danh tiếng thế giới, tại sao không ai về Việt Nam, họ ở lại nước ngoài là vì sao?

tin nhap 20160902061151
Chuyên gia Kinh tế Phạm Chi Lan (phải) và nguyên Viện trưởng Viện CIEM Lê Xuân Bá (thứ hai từ trái sang) có nhiều ý kiến sâu sắc tại Hội thảo trên.

"Năng lực soạn thảo văn bản của ta còn kém. Chúng tôi trong tổ tư vấn của Chính phủ xem văn bản này thấy chán quá, nhưng không còn lựa chọn nào khác là vẫn phải ban hành. Hiện nay, Việt Nam đủ các loại văn bản, Nghị định mà thể chế kinh tế vẫn kém. Ở đây là người kém không thể đổi mới. Cơ chế hiện nay dung dưỡng cho chạy chức, chạy quyền. Chúng ta không thiết lập được cơ chế kiểm soát quyền lực", ông Lược nhấn mạnh.

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng: 5 năm qua chúng ta đã chú trọng đổi mới mô hình tăng trưởng nhưng chưa hiệu quả chưa nhiều. Câu hỏi lớn nhất của tôi là lấy đâu ra nguồn lực tăng trưởng chất lượng và bền vững trong khi nguồn lực mô hình cũ đã cạn kiệt.

“Nói mãi đổi mới mô hình tăng trưởng mà không đổi mới được. Đừng có tăng trưởng theo chiều rộng bằng vốn, lao động giá rẻ và tài nguyên nữa. Chúng ta cần nhận thức là thế giới đang thay đổi từng ngày theo giá trị gia tăng, trình độ và công nghệ của con người. So sánh với các điều kiện ngoại lực, điều kiện nội lực đang yếu đi. Khu vực trong nước nhập khẩu cao, nhập siêu lớn. Hiệu suất đầu tư cao nhưng hiệu quả đầu tư vốn thấp. Khu vực kinh tế trong nước yếu trong cạnh tranh, kém trong hội nhập. Đây là nỗi đau của nền kinh tế”, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nhấn mạnh.

Theo bà Lan, hiện tư duy phát triển ở nhiều cơ quan Nhà nước, Bộ, ban ngành còn coi kinh tế Nhà nước là chủ đạo. "Chưa thay đổi được tư duy thì chưa thể nghĩ đến thay đổi trong hành động. Ngay cả chi tiêu công, đầu tư công không được giám sát và quy trách nhiệm và còn được che chắn nữa", bà Lan nói.

"Các yếu kém của DN Việt Nam hiện nay, một phần do chính họ nhưng DN hoạt động trong môi trường không cạnh tranh thì làm sao có đất sống để cạnh tranh được với thế giới. Cần thay đổi cách tư duy: 5 năm tới, cần cải cách nhanh, quyết liệt còn nếu cứ "rải mành mành" thế này thì không thay đổi được", chuyên gia Lan nhấn mạnh.

Ví dụ về biến đổi khí hậu tác động đến sản xuất nông nghiệp: "dưới sức ép của biến đổi khí hậu, nông nghiệp của Đồng bằng Sông Cửu Long sẽ không thể theo cách cũ được, 4 năm rồi không có lũ rồi phải thay đổi cơ cấu cây trồng. Chúng ta đã đến chân tường rồi, sao không thay đổi đi", bà Lan khẳng khái nói.

Công nghiệp hóa rỗng ruột và đội ngũ "sáng cắp ô đi, tối cắp ô về"

Theo GS Nguyễn Quang Thái: Hiện Nghi quyết của Việt Nam là nhất thế giới, nói và lặp lại Nghị quyết ở các Bộ, ngành và địa phương.

"Chúng ta phải thay đổi, nên gai góc hơn, chứ cứ nói mượt mà theo Nghị quyết thì không ổn. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng đã nói cần là nói thẳng và đi thẳng vào vấn đề để đổi mới đất nước", GS Thái nói.

Vị GS nhấn mạnh: "Hiện công nghiệp hóa của mình là kiểu rỗng ruột, dịch vụ của mình kém thì năng lực cạnh tranh và chơi sòng phẳng thế nào?"

TS Lê Xuân Bá, nguyên Viện trưởng Viện CIEM cho rằng: "Chúng ta phải đánh giá lại thực trạng nền kinh tế. Vấn đề là cái gì cũng muốn làm khi mà lực kém. Chỉ nói hay nhưng làm dở, chính sách luật pháp nhiều cái chưa chuẩn, ban hành ra thiếu tính thực tế".

Ông này ví dụ: Phạt người đi bộ đi dưới lòng đường, nhưng thử hỏi tại sao họ phải đi xuống lòng đường. Chẳng ai muốn bị phạt, bị xe đâm. Trong khi các gốc vấn đề là vỉa hè bị chiếm dụng, đường không có vỉa hè thì không giải quyết.

Theo TS Bá: Hiện nay, vấn đề phát triển công nghiệp ô tô và công nghiệp hóa thế nào trong khi các nước phát triển xe chạy điện rồi, Việt Nam vẫn chưa có chiếc xe hoàn chỉnh, vẫn sử dụng xăng bẩn tiêu chuẩn Euro 2, trong khi thế giới sử dụng xăng sạch Euro 4, xăng sinh học.

"Đã đến lúc muốn giải quyết các vấn đề kinh tế thì phải giải quyết các vấn đề ngoài kinh tế, nếu không chỉ loay hoay mãi. Con người là yếu tố cần đổi mới đầu tiên. Cần phải "dỡ miếu đuổi hòa thượng" giảm bớt người hưởng lương ngân sách khiến nền kinh tế không chịu nổi, chi thường xuyên quá lớn khiến bà con nông dân phải còng lưng nuôi", ông Bá nói.

Nguyễn Tuyền

Dân trí

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC HCM 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
AVPL/SJC ĐN 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Nguyên liệu 9999 - HN 68,950 ▲100K 69,500 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 68,850 ▲100K 69,400 ▲50K
AVPL/SJC Cần Thơ 78,800 ▼200K 80,800 ▼200K
Cập nhật: 29/03/2024 17:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
TPHCM - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Hà Nội - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Hà Nội - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Đà Nẵng - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Đà Nẵng - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Miền Tây - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Miền Tây - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 69.300 ▲800K 70.500 ▲700K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.800 ▼300K 80.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 69.300 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 69.200 ▲800K 70.000 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 51.250 ▲600K 52.650 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.700 ▲470K 41.100 ▲470K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.870 ▲330K 29.270 ▲330K
Cập nhật: 29/03/2024 17:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,885 ▲50K 7,040 ▲50K
Trang sức 99.9 6,875 ▲50K 7,030 ▲50K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,950 ▲50K 7,070 ▲50K
NL 99.99 6,880 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,880 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Nghệ An 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Miếng SJC Hà Nội 7,880 ▼50K 8,080 ▼35K
Cập nhật: 29/03/2024 17:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 81,000
SJC 5c 79,000 81,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 81,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 69,200 ▲700K 70,450 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 69,200 ▲700K 70,550 ▲700K
Nữ Trang 99.99% 69,100 ▲700K 69,950 ▲700K
Nữ Trang 99% 67,757 ▲693K 69,257 ▲693K
Nữ Trang 68% 45,721 ▲476K 47,721 ▲476K
Nữ Trang 41.7% 27,322 ▲292K 29,322 ▲292K
Cập nhật: 29/03/2024 17:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,728.49 15,887.36 16,397.67
CAD 17,838.70 18,018.89 18,597.66
CHF 26,804.54 27,075.29 27,944.96
CNY 3,362.31 3,396.27 3,505.89
DKK - 3,514.56 3,649.29
EUR 26,020.03 26,282.86 27,447.78
GBP 30,490.41 30,798.39 31,787.64
HKD 3,088.58 3,119.77 3,219.98
INR - 296.75 308.63
JPY 158.93 160.54 168.22
KRW 15.91 17.67 19.28
KWD - 80,424.52 83,642.95
MYR - 5,198.02 5,311.59
NOK - 2,236.06 2,331.08
RUB - 255.72 283.10
SAR - 6,594.46 6,858.36
SEK - 2,266.43 2,362.75
SGD 17,918.05 18,099.04 18,680.38
THB 601.86 668.73 694.37
USD 24,600.00 24,630.00 24,970.00
Cập nhật: 29/03/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,908 16,008 16,458
CAD 18,063 18,163 18,713
CHF 27,064 27,169 27,969
CNY - 3,396 3,506
DKK - 3,535 3,665
EUR #26,274 26,309 27,569
GBP 30,935 30,985 31,945
HKD 3,096 3,111 3,246
JPY 160.61 160.61 168.56
KRW 16.62 17.42 20.22
LAK - 0.88 1.24
NOK - 2,245 2,325
NZD 14,570 14,620 15,137
SEK - 2,266 2,376
SGD 17,938 18,038 18,638
THB 628.83 673.17 696.83
USD #24,570 24,650 24,990
Cập nhật: 29/03/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,620.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,213.00 26,318.00 27,483.00
GBP 30,653.00 30,838.00 31,788.00
HKD 3,106.00 3,118.00 3,219.00
CHF 26,966.00 27,074.00 27,917.00
JPY 159.88 160.52 167.96
AUD 15,849.00 15,913.00 16,399.00
SGD 18,033.00 18,105.00 18,641.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,979.00 18,051.00 18,585.00
NZD 14,568.00 15,057.00
KRW 17.62 19.22
Cập nhật: 29/03/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24612 24662 25002
AUD 15963 16013 16415
CAD 18109 18159 18560
CHF 27305 27355 27767
CNY 0 3399.9 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26480 26530 27037
GBP 31120 31170 31630
HKD 0 3115 0
JPY 161.92 162.42 166.95
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0254 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14609 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18235 18235 18596
THB 0 642.4 0
TWD 0 777 0
XAU 7910000 7910000 8060000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 29/03/2024 17:00