Nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng cho xuất khẩu

16:42 | 21/04/2017

1,049 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Nhằm giúp các doanh nghiệp (DN), cơ quan quản lý nhà nước xây dựng chiến lược phát triển, chính sách hỗ trợ, nâng cao hơn nữa giá trị gia tăng cho hàng hóa xuất khẩu, ngày 20/4, tại Hà Nội, Cục Xúc tiến Thương mại Bộ Công Thương đã tổ chức diễn đàn "Xúc tiến xuất khẩu Việt Nam 2017”.  

Phát biểu tại diễn đàn, ông Bùi Huy Sơn, Cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại nhấn mạnh: “Với chủ đề về triển vọng thị trường xuất khẩu, các doanh nghiệp đã chủ động tìm hiểu các tác động chính sách đến hoạt động xuất khẩu, học hỏi kinh nghiệm của các doanh nghiệp trong xúc tiến thương mại (XTTM). Đồng thời, là dịp để các doanh nghiệp Việt mở rộng hợp tác và xuất khẩu”.

Diễn đàn Xúc tiến xuất khẩu (XTXK) Việt Nam là cơ hội cho các nhà DN, nhà quản lý, nhà nghiên cứu kinh tế trao đổi thông tin, đánh giá cơ hội thị trường cho xuất khẩu, thảo luận về các biện pháp XTXK, phát triển sản xuất, phát triển thị trường, nhằm mục tiêu phát huy năng lực sản xuất, xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam; đề xuất chính sách XTXK, các giải pháp nhằm nâng cao vị thế của Việt Nam thành một trong những quốc gia xuất khẩu có năng lực, đáng tin cậy, bền vững.

nang cao ham luong gia tri gia tang cho xuat khau
Toàn cảnh diễn đàn.

Năm 2016, kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 176,6 tỷ USD, tăng 9% so với năm 2015. Tăng trưởng xuất khẩu đạt được ở hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Cả nước có 24 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó nhóm hàng nông sản, thủy sản đạt 22,2 tỷ USD, tăng 7,7% so với năm 2015. Tỉ lệ nội địa hóa một số ngành được nâng cao như điện thoại di động, dệt may... Kết quả xuất khẩu tương đối khả quan so với các năm trước. Tuy nhiên, giá trị gia tăng nhiều nhóm ngành hàng như nông sản, thủy sản, điện tử gia dụng, điện tử công nghệ cao... vẫn còn thấp.

Tại diễn đàn, ông Lại Xuân Môn, Ủy viên TW Đảng, Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam khẳng định: “Kinh tế nông nghiệp của nước ta không chỉ là trụ đỡ cho nền kinh tế mà còn cứu cánh cho lâm nghiệp, công nghiệp và dịch vụ phát triển, góp phần ổn định chính trị của đất nước và an ninh nông thôn”.

Năm 2016, kinh tế nông nghiệp đạt xuất khẩu vào khoảng 30 tỷ USD, trong đó, sản lượng gạo xuất khẩu chiếm 2 tỷ USD, giảm cả về số lượng và giá trị xuất khẩu.

Theo ông Lại Xuân Môn, hạt tiêu, hạt điều ở Việt Nam luôn đứng số 1, số 2 thế giới nhưng giá trị lại đứng thứ 6 và 10 trên thế giới. Việc xuất khẩu nhiều, giá trị thấp làm cho đời sống của người nông dân gặp khó khăn. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên là do chính sách của Việt Nam thiếu đồng bộ, quy hoạch, khoa học kỹ thuật, hạ tầng, vốn, chất lượng nguồn nhân lực chưa được tốt…

Cần tập trung vào gốc của vấn đề, rà soát lại tất cả cơ chế chính sách cho đồng bộ, liên thông và hiệu quả, không tập trung vào cái ngọn. Đối với đất đai cần quy hoạch đồng bộ cả về hạ tầng và giống, gắn với bảo quản chế biến và tiêu thụ.

“Cái đích là phải tập trung cho đời sống, thu nhập của người dân được tăng lên. Xuất khẩu nhiều, giá trị tốt, nhưng chỉ tập trung vào doanh nghiệp, không chăm lo đến 16 triệu hộ nông dân thì không có nghĩa lý gì. Trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nông dân phải là then chốt, nếu không bàn đến chủ thể thì tái cơ cấu khó mà thành công. Nếu không giải quyết đồng bộ cái gốc của chính sách thì cường quốc về xuất khẩu nông nghiệp như chúng ta sẽ thua ngay tại sân nhà” - ông Lại Xuân Môn nhấn mạnh.

Ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu Bộ Công Thương cho biết, Việt Nam có sản lượng nông nghiệp dẫn đầu song không đưa được giá trị cao lên. Hầu hết, sản phẩm chưa chiếm lĩnh được thị trường bởi vấn đề ở khâu chế biến. Trong đó, các mặt hàng nông thủy sản chúng ta vẫn đang chủ yếu xuất khẩu thô. Nếu có qua sơ chế cũng chỉ ở mức không đáng kể.

Ngoài ra, các mặt hàng xuất khẩu còn gặp vấn đề liên quan đến an toàn thực phẩm khi hàng rào kỹ thuật các nước dựng lên ngày càng nhiều. Điển hình là các sản phẩm cá tra, tôm phải vượt qua hàng rào kỹ thuật khắt khe để vào được các thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc.

Cũng theo ông Hải, Việt Nam là một nước có thế mạnh về nguyên liệu nhưng nay trở nên khan hiếm, điển hình là nguyên liệu trong ngành điều. Hiện nay, 50% lượng điều thô là nhập khẩu có nghĩa là vùng điều lớn nhất của Việt Nam là Đông Nam Bộ đã không đáp ứng được nhu cầu trong nước và nguồn nguyên liệu đang dần phụ thuộc vào nước khác.

nang cao ham luong gia tri gia tang cho xuat khau
Ông Bùi Huy Sơn, Cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại Bộ Công Thương phát biểu khai mạc diễn đàn

Các sản phẩm nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng thương hiệu bởi hàng hóa Việt Nam chủ yếu sản xuất nhỏ lẻ, đa phần doanh nghiệp kinh doanh với quy mô nhỏ, khó khăn trong việc xây dựng thương hiệu. Theo đó, cần phải xây dựng thương hiệu tập thể. Thương hiệu của doanh nghiệp rất quan trọng, nhưng ở một góc độ nào đó, nếu có thương hiệu tập thể thì sẽ giúp kéo một loạt doanh nghiệp trong ngành tiến lên, đưa giá trị lên cao.

Ngoài ra, lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển, sản xuất vẫn chủ yếu là gia công, nhập nguyên liệu linh kiện nước ngoài về lắp ráp, điển hình là da giày, dệt may, đồ gỗ, điện tử, ô tô… Ngành da giày chỉ đáp ứng 30 - 40% nhu cầu nguyên phụ liệu.

Mặc dù, công nghiệp đã tham gia vào nguồn cung ứng toàn cầu các sản phẩm dệt may, điện thoại trên thị trường thế giới nhưng giá trị chúng ta thu về được rất thấp. “Trong một chuỗi sản xuất luôn có những mắt xích then chốt nhưng hiện nay chúng ta vẫn chỉ là mắt xích phụ thuộc, chưa có được mắt xích tốt nhất”, ông Hải nhận định.

Nói về vấn đề nâng cao giá trị gia tăng nông sản xuất khẩu của Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Văn Nam, Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh cho biết, XTTM là hoạt động quan trọng tối cần thiết để mở rộng thị trường, phát triển xuất khẩu hàng hóa. Hiện hệ thống tổ chức XTTM đã được thiết lập rộng rãi từ Trung ương đến các địa phương. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa hiệu quả, trong giai đoạn tới hoạt động XTTM cần tập trung cho từng mặt hàng đặc biệt đối với ngành nông sản. Nông sản Việt Nam còn hạn chế về chất lượng, chế biến, bảo quản thì những hạn chế về thương mại, marketing, nắm bắt thị trường, thị hiếu, về tổ chức, về nghiệp vụ bán hàng còn rất lớn. Do vậy, Cục XTTM cần có chủ trương cụ thể đổi mới hoạt động XTXK hàng hóa, nhất là hàng hóa nông sản, góp phần tích cực vào chủ trương đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hiện nay của Chính phủ.

“Để nâng cao giá trị gia tăng của hàng nông sản xuất khẩu thì phải cải cách hệ thống thương mại theo cơ cấu hiện đại toàn cầu. Không thể bằng lòng với lối thương mại nhỏ lẻ, tổn thất cho người nông dân, đồng thời ảnh hưởng lợi ích người tiêu dùng. Cần xây dựng, tạo nên những tập đoàn thương mại lớn với thương hiệu sản phẩm và thương hiệu doanh nghiệp tự sản xuất” - ông Nam nhấn mạnh.

Tú Uyên

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,500 ▼500K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC HCM 81,500 ▼500K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC ĐN 81,500 ▼500K 83,700 ▼300K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,100 ▼350K 74,050 ▼350K
Nguyên liệu 999 - HN 73,000 ▼350K 73,950 ▼350K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,500 ▼500K 83,700 ▼300K
Cập nhật: 25/04/2024 11:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 84.300
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 84.300
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 84.300
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 81.500 ▼1000K 83.800 ▼700K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 25/04/2024 11:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,275 ▼45K 7,490 ▼35K
Trang sức 99.9 7,265 ▼45K 7,480 ▼35K
NL 99.99 7,270 ▼45K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,250 ▼45K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,340 ▼45K 7,520 ▼35K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,340 ▼45K 7,520 ▼35K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,340 ▼45K 7,520 ▼35K
Miếng SJC Thái Bình 8,180 ▼60K 8,380 ▼60K
Miếng SJC Nghệ An 8,180 ▼60K 8,380 ▼60K
Miếng SJC Hà Nội 8,180 ▼60K 8,380 ▼60K
Cập nhật: 25/04/2024 11:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,700 ▼800K 84,000 ▼500K
SJC 5c 81,700 ▼800K 84,020 ▼500K
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,700 ▼800K 84,030 ▼500K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,000 ▼100K 74,700 ▼200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,000 ▼100K 74,800 ▼200K
Nữ Trang 99.99% 72,800 ▼100K 73,900 ▼200K
Nữ Trang 99% 71,168 ▼198K 73,168 ▼198K
Nữ Trang 68% 47,907 ▼136K 50,407 ▼136K
Nữ Trang 41.7% 28,469 ▼84K 30,969 ▼84K
Cập nhật: 25/04/2024 11:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,095.55 16,258.14 16,779.72
CAD 18,066.09 18,248.58 18,834.02
CHF 27,070.48 27,343.92 28,221.15
CNY 3,431.82 3,466.48 3,578.23
DKK - 3,577.53 3,714.53
EUR 26,481.22 26,748.71 27,933.23
GBP 30,827.96 31,139.35 32,138.35
HKD 3,160.58 3,192.50 3,294.92
INR - 303.87 316.02
JPY 158.45 160.06 167.71
KRW 15.94 17.71 19.32
KWD - 82,205.72 85,492.23
MYR - 5,253.88 5,368.47
NOK - 2,265.78 2,361.97
RUB - 261.72 289.72
SAR - 6,750.57 7,020.45
SEK - 2,288.25 2,385.40
SGD 18,184.25 18,367.93 18,957.20
THB 604.07 671.19 696.90
USD 25,137.00 25,167.00 25,477.00
Cập nhật: 25/04/2024 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,244 16,344 16,794
CAD 18,278 18,378 18,928
CHF 27,287 27,392 28,192
CNY - 3,462 3,572
DKK - 3,592 3,722
EUR #26,702 26,737 27,997
GBP 31,233 31,283 32,243
HKD 3,166 3,181 3,316
JPY 159.85 159.85 167.8
KRW 16.63 17.43 20.23
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,270 2,350
NZD 14,814 14,864 15,381
SEK - 2,283 2,393
SGD 18,194 18,294 19,024
THB 629.78 674.12 697.78
USD #25,166 25,166 25,476
Cập nhật: 25/04/2024 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,175.00 25,177.00 25,477.00
EUR 26,671.00 26,778.00 27,961.00
GBP 31,007.00 31,194.00 32,152.00
HKD 3,181.00 3,194.00 3,297.00
CHF 27,267.00 27,377.00 28,214.00
JPY 159.70 160.34 167.58
AUD 16,215.00 16,280.00 16,773.00
SGD 18,322.00 18,396.00 18,933.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,215.00 18,288.00 18,819.00
NZD 14,847.00 15,342.00
KRW 17.67 19.30
Cập nhật: 25/04/2024 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25170 25170 25477
AUD 16293 16343 16848
CAD 18321 18371 18822
CHF 27483 27533 28095
CNY 0 3465.8 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26904 26954 27664
GBP 31369 31419 32079
HKD 0 3140 0
JPY 161.18 161.68 166.19
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0381 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14860 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18435 18485 19042
THB 0 642.5 0
TWD 0 779 0
XAU 8180000 8180000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 25/04/2024 11:00