Năm 2015: Tăng trưởng đã bắt đầu bền vững

08:00 | 29/12/2015

601 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Khi bài báo này lên khuôn, bức tranh kinh tế xã hội của đất nước ta năm 2015 đã trở nên rõ nét và sáng sủa hơn mong đợi của một năm đầy khó khăn thách thức. Còn nhớ trong hai kỳ họp Quốc hội, các đại biểu đã có những ý kiến, đề nghị hiến kế rất cụ thể cho công tác điều hành kinh tế vĩ mô.

Khép lại một năm, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã thực hiện quyết liệt, có hiệu quả các đột phá chiến lược, tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của nền kinh tế.

nam 2015 tang truong da bat dau ben vung

Năm 2015, theo đánh giá của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia  là năm kinh tế khả quan, doanh nghiệp phục hồi. Khu vực doanh nghiệp phục hồi khá, tăng trưởng về quy mô tốt nhất kể từ năm 2009. Quy mô khu vực doanh nghiệp phi tài chính tăng mạnh so với năm 2014. Tổng doanh thu bình quân, tổng tài sản bình quân và vốn chủ sở hữu bình quân toàn khu vực đều tăng khá. Khu vực  doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp tục đà phục hồi mạnh mẽ, biểu hiện ở mức tăng trưởng doanh thu bình quân. Các chuyên gia cho rằng, nguyên nhân là sau thời gian dài, cùng với sự nỗ lực từ phía các doanh nghiệp và các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, tình hình sản xuất kinh doanh của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ đã có nhiều cải thiện tích cực.   

Tăng trưởng phục hồi đã khuyến khích tiêu dùng và đầu tư tư nhân. Chỉ số niềm tin người tiêu dùng vẫn ở mức cao hơn năm 2014.

Cùng với đó, cán cân thương mại có sự cải thiện đáng kể, kiều hối năm 2015 dự báo lên tới 13-14 tỉ USD, vốn FDI giải ngân có xu hướng tăng.

Cũng nhờ kinh tế tăng trưởng mà có thêm hộ gia đình có xu hướng đầu tư vào sản xuất trở lại với 31% số người được hỏi đang có dự định đầu tư vào sản xuất và cung cấp dịch vụ.

Các chuyên gia đánh giá, năm qua chúng ta đã nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước; cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, đặc biệt là thủ tục đầu tư, xây dựng, đất đai, thuế, hải quan và tín dụng ngân hàng. Trong toàn hệ thống chính trị, đã xác định trách nhiệm cá nhân, nhất là cá nhân người đứng đầu, tăng cường thanh tra, kiểm tra nhằm tăng tính công khai, minh bạch và tạo sự chuyển biến một cách rõ rệt trong thực thi chức trách, nhiệm vụ được giao. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công được nâng cao rõ rệt, bảo đảm nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn an toàn theo quy định.

Theo công bố của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12 tăng 0,02% so với tháng 11 và tăng 0,6% so với cùng kỳ năm 2014. Các chuyên gia nhận xét, nguyên nhân chỉ số giá tiêu dùng bình quân CPI cả năm 2015 chỉ tăng 0,63% so với năm ngoái, thấp hơn nhiều so với mục tiêu 5% của Quốc hội đặt ra. Đây cũng là mức tăng chỉ số giá tiêu dùng thấp kể từ 15 năm qua. Ngoài ra, nhờ các ngành, các cấp tích cực triển khai thực hiện các giải pháp nhằm giữ ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát, do đây là năm cuối thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm. Các chuyên gia cũng cho rằng, người dân hiện đã tính toán chi tiêu kỹ hơn. Do đó, người cung cấp hàng hóa, dịch vụ cũng không tăng giá cao vào dịp trước, trong và sau tết Nguyên đán hay các dịp lễ hội như những năm trước đây.

Theo Vụ trưởng Vụ Thống kê giá Vũ Thị Thu Thủy, bình quân mỗi tháng trong năm 2015, CPI chỉ tăng 0,05%, giữ ở mức thấp và ổn định, tạo điều kiện cho các chính sách tiền tệ tích cực, kích thích sản xuất kinh doanh phát triển và tạo điều kiện cho giá một số mặt hàng do Nhà nước quản lý được tính đầy đủ vào chi phí theo giá thị trường. Các chuyên gia nhận xét, năm 2015 tăng GDP cao nhất trong vòng 5 năm qua cho thấy sự vận hành của nền kinh tế của Chính phủ khá tốt. Nền kinh tế không cần đánh đổi việc tăng giá để có được tăng trưởng.Giá thấp nhưng vẫn tăng trưởng tốt, là một thành công lớn về điều hành kinh tế vĩ mô trong năm 2015.

Theo Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm, năm 2015, nhập siêu của nền kinh tế vẫn ở mức trên 3 tỉ USD. Tổng cục trưởng nhấn mạnh, chúng ta rất mừng vì nhập siêu - điều tất yếu của nền kinh tế đang phát triển cũng chỉ ở mức như vậy. Hiện chúng ta sản xuất nhưng vẫn còn phụ thuộc nguyên liệu từ bên ngoài, bởi vậy chúng ta phải nhập siêu để duy trì và phát triển sản xuất. Đây không phải là vấn đề đáng quan ngại. Tất nhiên, trong quá trình  hội nhập sâu, cần phải chú trọng phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ để nhanh chóng cung cấp đủ nguyên liệu cho sản xuất, dần tránh phụ thuộc vào bên ngoài... Nhìn lại một năm phục hồi và phát triển, chúng ta nhận thấy, kinh tế - xã hội năm 2015 và 5 năm 2011-2015 đều đạt kết quả quan trọng trên hầu hết các lĩnh vực. Theo đó, lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô dần ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm. Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh, từ 18,13% năm 2011 xuống còn khoảng 0,63% vào năm 2015, thấp nhất trong 15 năm qua.

Mặt bằng lãi suất giảm, năm 2015 chỉ bằng 40% so với năm 2011; dư nợ tín dụng tăng 17%, cao nhất trong 6 năm qua từ năm 2011, chất lượng tín dụng từng bước được cải thiện. Tỷ giá được điều chỉnh phù hợp; thị trường ngoại hối cơ bản ổn định; niềm tin vào đồng tiền Việt Nam tăng lên; khắc phục một bước quan trọng tình trạng đôla hóa, vàng hóa trong nền kinh tế.

Kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 18%/năm, nhập khẩu tăng 15%/năm; tỷ lệ nhập siêu giảm đáng kể. Cán cân thanh toán quốc tế thặng dư khá cao; dự trữ ngoại hối năm nay đạt mức cao nhất từ trước đến nay.

Mặc dù thu từ dầu thô giảm mạnh nhưng tổng thu ngân sách năm 2015 vẫn tăng 7,4% và 5 năm gấp khoảng 2 lần so với giai đoạn trước. Nợ công khoảng 61,3% GDP, nợ Chính phủ 48,9%, nợ nước ngoài của quốc gia 41,5%, trong giới hạn an toàn theo quy định...

Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý và phục hồi khá cao vào những năm cuối; chất lượng tăng trưởng có bước được nâng lên. Cụ thể, tăng trưởng GDP năm 2015 có thể đạt  trên 6,68%, cao nhất trong 5 năm qua, vượt kế hoạch đề ra (6,2%).

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) hồi tháng 10 đã nhận xét kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng 3,1% trong năm nay, giảm 0,2% so với dự báo đưa ra hồi giữa năm, nhưng IMF khẳng định, GDP của Việt Nam trong năm nay sẽ đạt trên 6,5%. Trong nhóm 5 nền kinh tế Đông Nam Á gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam, IMF dự báo tăng trưởng sẽ khởi sắc ở Việt Nam, Philippines và Thái Lan, trong khi Indonesia, Malaysia đi xuống. Bản báo cáo của IMF được đưa ra trong bối cảnh giá dầu thế giới hạ về ngưỡng dưới 50 USD/thùng từ mức hơn 110 USD/thùng vào giữa năm ngoái. Giá kim loại thế giới cũng giảm sâu do mối lo về nhu cầu tiêu thụ, đặc biệt nhu cầu tiêu thụ của quốc gia thứ 2 thế giới -Trung Quốc - giảm sút…

Khép lại một năm đầy cam go thử thách, Việt Nam đã có trong tay những tiền đề phát triển ổn định cho năm 2016 - năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII, tiếp tục đưa đất nước phát triển.

 

Minh Nghĩa

Năng lượng Mới 487

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 ▲2000K 84,000 ▲1500K
AVPL/SJC HCM 82,000 ▲2000K 84,000 ▲1500K
AVPL/SJC ĐN 82,000 ▲2000K 84,000 ▲1500K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,450 ▲300K 74,400 ▲300K
Nguyên liệu 999 - HN 73,350 ▲300K 74,300 ▲300K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 ▲2000K 84,000 ▲1500K
Cập nhật: 24/04/2024 21:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 82.500 ▲1500K 84.500 ▲1200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 ▲2500K 84.300 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 24/04/2024 21:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,320 ▲35K 7,525 ▲25K
Trang sức 99.9 7,310 ▲35K 7,515 ▲25K
NL 99.99 7,315 ▲35K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,295 ▲35K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,385 ▲35K 7,555 ▲25K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,385 ▲35K 7,555 ▲25K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,385 ▲35K 7,555 ▲25K
Miếng SJC Thái Bình 8,240 ▲140K 8,440 ▲130K
Miếng SJC Nghệ An 8,240 ▲140K 8,440 ▲130K
Miếng SJC Hà Nội 8,240 ▲140K 8,440 ▲130K
Cập nhật: 24/04/2024 21:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,500 ▲1500K 84,500 ▲1200K
SJC 5c 82,500 ▲1500K 84,520 ▲1200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,500 ▲1500K 84,530 ▲1200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 ▲200K 74,900 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 ▲200K 75,000 ▲200K
Nữ Trang 99.99% 72,900 ▲300K 74,100 ▲200K
Nữ Trang 99% 71,366 ▲198K 73,366 ▲198K
Nữ Trang 68% 48,043 ▲136K 50,543 ▲136K
Nữ Trang 41.7% 28,553 ▲84K 31,053 ▲84K
Cập nhật: 24/04/2024 21:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,099.42 16,262.04 16,783.75
CAD 18,096.99 18,279.79 18,866.22
CHF 27,081.15 27,354.69 28,232.26
CNY 3,433.36 3,468.04 3,579.84
DKK - 3,572.53 3,709.33
EUR 26,449.58 26,716.75 27,899.85
GBP 30,768.34 31,079.13 32,076.18
HKD 3,160.05 3,191.97 3,294.37
INR - 304.10 316.25
JPY 159.03 160.63 168.31
KRW 16.01 17.78 19.40
KWD - 82,264.83 85,553.65
MYR - 5,261.46 5,376.21
NOK - 2,279.06 2,375.82
RUB - 261.17 289.12
SAR - 6,753.41 7,023.40
SEK - 2,294.19 2,391.60
SGD 18,200.78 18,384.62 18,974.42
THB 606.76 674.18 700.00
USD 25,147.00 25,177.00 25,487.00
Cập nhật: 24/04/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,197 16,217 16,817
CAD 18,225 18,235 18,935
CHF 27,308 27,328 28,278
CNY - 3,437 3,577
DKK - 3,552 3,722
EUR #26,301 26,511 27,801
GBP 31,061 31,071 32,241
HKD 3,115 3,125 3,320
JPY 159.82 159.97 169.52
KRW 16.28 16.48 20.28
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,232 2,352
NZD 14,806 14,816 15,396
SEK - 2,260 2,395
SGD 18,108 18,118 18,918
THB 633.15 673.15 701.15
USD #25,135 25,135 25,487
Cập nhật: 24/04/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,185.00 25,187.00 25,487.00
EUR 26,723.00 26,830.00 28,048.00
GBP 31,041.00 31,228.00 3,224.00
HKD 3,184.00 3,197.00 3,304.00
CHF 27,391.00 27,501.00 28,375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16,226.00 16,291.00 16,803.00
SGD 18,366.00 18,440.00 19,000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18,295.00 18,368.00 18,925.00
NZD 14,879.00 15,393.00
KRW 17.79 19.46
Cập nhật: 24/04/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25195 25195 25487
AUD 16325 16375 16880
CAD 18364 18414 18869
CHF 27519 27569 28131
CNY 0 3469.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26892 26942 27645
GBP 31326 31376 32034
HKD 0 3140 0
JPY 161.93 162.43 166.97
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0346 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14885 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18459 18509 19066
THB 0 646 0
TWD 0 779 0
XAU 8230000 8230000 8400000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 24/04/2024 21:00