Phối trộn than nội và nhập khẩu:

Lợi nhiều mặt

11:29 | 08/01/2016

461 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo các chuyên gia, để cung cấp đủ nhu cầu điện của đất nước, Việt Nam cần xây dựng nguồn nhiệt điện chạy than, đồng thời cần cải tiến các kỹ thuật như trộn than để tăng hiệu quả sản xuất cũng như giảm lượng tiêu thụ than. Hiện nay, giải pháp phối trộn than nhập khẩu với nguồn than trong nước được xem là giải pháp tối ưu trong bối cảnh hiện nay.

Thí nghiệm thành công

Theo Quy hoạch điện VII (chưa điều chỉnh) lượng than cần cho nhiệt điện của nước ta sẽ tăng mạnh, trong khi nguồn cung ngày càng khó khăn, nên việc phải nhập khẩu than là tất yếu. Để có thể đảm bảo nguồn than ổn định, lâu dài đủ cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện đang là vấn đề khá nan giải hiện nay. Đây là vấn đề thu hút sự quan tâm của các chuyên gia trong và ngoài nước tại Hội thảo “Kinh nghiệm nhập khẩu than và trộn than cho các nhà máy nhiệt điện” diễn ra ngày 24-12 vừa qua tại Hà Nội.

tin nhap 20160104152505
PGS.TS Trương Duy Nghĩa

Theo PGS.TS Trương Duy Nghĩa, Chủ tịch Hội Khoa học Kỹ thuật Nhiệt Việt Nam, Chủ nhiệm Đề tài khoa học cấp Nhà nước về “Nghiên cứu công nghệ đốt than trộn của than khó cháy với than nhập khẩu dễ cháy nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nhiên liệu tại các nhà máy nhiệt điện đốt than ở Việt Nam”, than của Việt Nam chủ yếu là than antraxit có nhiệt trị tương đương với than bitum và á bitum của các quốc gia khác (đặc biệt là than của Indonesia) nhưng độ tro (lượng than không cháy) cao hơn và chất bốc (độ cháy) thấp hơn.

Do đó, khi sử dụng làm nhiên liệu cho các nhà máy điện sẽ dẫn đến tiêu hao lượng than lớn, hàm lượng carbon trong tro xỉ cao, gây đóng xỉ buồng đốt và phụ tải tối thiểu đốt kèm dầu (thường là dầu FO) lớn. Hậu quả là tốn nhiều nhiên liệu than, tro xỉ khó sử dụng để sản xuất vật liệu xây dựng, nhanh hư hại buồng đốt và tăng chi phí dầu FO.

Từ những kết quả này, PGS.TS Trương Duy Nghĩa khẳng định: “Việc phối trộn than nội địa và than trong nước giúp tăng hiệu suất cháy, hiệu suất lò hơi, giảm suất tiêu thụ than, đồng thời có thể giảm nhiều chi phí khác như: dầu đốt phụ trợ, giảm tiêu thụ điện năng để nghiền than… Đặc biệt, khi độ tro giảm, tro xỉ sẽ là nguồn nguyên liệu quan trọng cho sản xuất vật liệu xây dựng không nung”.

Quá trình thí nghiệm của đề tài đã được triển khai tại Nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình với tỷ lệ pha trộn giữa than nội địa (antraxit) và than nhập khẩu (á bitum) của Indonesia lần lượt là 5/95%; 10/90%; 15/85%; 20/80% và 30/70%. Trong khi đó, độ tro giảm mạnh từ 24,54% xuống 20,31%, còn chất bốc lại tăng từ 9,01% đến 19,94%.

Tiếp tục xử lý

Dù khẳng định việc phối trộn than mang lại hiệu quả cao nhưng PGS.TS Trương Duy Nghĩa cũng lưu ý, do đặc thù riêng về cấu tạo thiết bị, đặc tính than khi thiết kế nên mỗi nhà máy cần thử nghiệm, tính toán tỷ lệ phối trộn cho phù hợp. Đặc biệt, do chưa có nhiều đề tài khoa học chuyên biệt cho lĩnh vực này, nên các nhà máy chỉ nên phối trộn với tỷ lệ tối đa là 20% than nhập khẩu/80% nội địa để bảo đảm an toàn vận hành.

Ngoài ra, để sử dụng hiệu quả than phối trộn, cần nghiên cứu thay đổi hệ thống nghiền than và buồng đốt than để bảo đảm an toàn vận hành và hiệu quả kinh tế.

Ngoài vấn đề kỹ thuật phối trộn than, đại diện Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 3 cho rằng, đến nay Việt Nam mới chỉ có kinh nghiệm xuất khẩu than chứ chưa có nhiều kinh nghiệm nhập khẩu than. Trong khi việc nhập khẩu than có tính chuyên biệt riêng. Vì vậy, các đơn vị nhập khẩu cần tiếp tục nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm quốc tế và căn cứ trên cơ sở thực tế của Việt Nam.

Chuyên gia Eddy S. Wibowo, Chủ tịch Liên danh các nhà xuất khẩu than Indonesia - Việt Nam cho rằng, than là nguồn nguyên liệu rẻ giúp các nước đang phát triển sử dụng để sản xuất điện. Hiện nay Trung Quốc là nước sử dụng nhiều than nhất. Chuyên gia này cũng bày tỏ sự ủng hộ đối với nhu cầu cấp bách về an ninh năng lượng Việt Nam, Indonesia là một trong những nước có nguồn than dồi dào, có điều kiện địa lý gần Việt Nam và là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN. Indonesia cũng có những điều kiện cần và đủ để hợp tác cùng nhau trong lĩnh vực xuất nhập khẩu than đá phục vụ nhu cầu của các nhà máy nhiệt điện than của Việt Nam với tiêu chí cung cấp than dài hạn, bền vững, đôi bên cùng có lợi.

Hiện toàn cầu có 1.579 nhà máy phát điện chạy bằng than; trong đó các nước Ấn Độ, Trung Quốc, châu Phi chiếm khoảng 71% và nếu thêm Việt Nam vào thì con số này tăng lên 81%. Đồng thời, dự kiến sẽ có trên 2.000 nhà máy nhiệt điện đang dự trù sẽ được xây dựng. Vì vậy, lượng tiêu thụ than trên toàn cầu sẽ rất lớn; trong đó có Việt Nam.

Theo Quy hoạch điện VII (chưa điều chỉnh) thì đến năm 2020, nhiệt điện than ở nước ta chiếm khoảng 48% về công suất và 46,8% về sản lượng. Đến năm 2030, các tỷ lệ này dự kiến lần lượt sẽ là 51,6% và 56,4%. Về nhu cầu than cho điện, năm 2015 là 33,3 triệu tấn, trong đó một phần phải nhập khẩu.

Theo tính toán, lượng than thiếu hụt sẽ được bù đắp bằng việc nhập khẩu. Nguồn than nhập khẩu có thể là từ Australia hoặc Indonesia, vì hai nước này có trữ lượng than lớn và khoảng cách địa lý khá gần Việt Nam. Việc sử dụng than nhập khẩu sẽ được thực hiện trong các nhà máy đang và sắp xây dựng, còn một số nhà máy đang hoạt động có thể ưu tiên sử dụng than nội địa hoặc sử dụng than trộn giữa nội địa và nhập khẩu. Bản thân than nhập khẩu (chủ yếu là bitum và á bitum) cũng có rất nhiều chủng loại với thành phần rất khác nhau. Do đó, khi phải nhập khẩu than thì việc đốt trộn giữa than nội địa với than nhập hoặc giữa than nhập với nhau là giải pháp tất yếu.

 

Nguyễn Kiên

Năng lượng Mới 488

  • el-2024