DNNN trong nền kinh tế thị trường - Góc nhìn từ ngành năng lượng

Gỡ nút thắt, định vị cơ chế quản lý DNNN

06:45 | 26/09/2018

3,084 lượt xem
Theo dõi Petrovietnam trên
|
(PetroTimes) - Các sản phẩm của ngành năng lượng như điện, than, xăng dầu, khí… được xem là “nguồn sống”, là “máu”, là “thức ăn” của nền kinh tế. Sự phát triển của ngành năng lượng vì thế là sự đảm bảo cho quá trình tăng trưởng, phát triển ổn định, bền vững của mọi quốc gia, vùng lãnh thổ.
go nut that dinh vi co che quan ly dnnn Vị thế ngành than
go nut that dinh vi co che quan ly dnnn PVN - Công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô quan trọng của Chính phủ
go nut that dinh vi co che quan ly dnnn Giữ “mạch nguồn nuôi sống” nền kinh tế

Thực tế hội nhập kinh tế quốc tế những năm qua cho thấy, doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) chính là hạt nhân tạo động lực cho các ngành, lĩnh vực khác của nền kinh tế phát triển. Nền kinh tế càng hội nhập, áp lực cạnh tranh càng cao thì vấn đề đầu tư cơ sở hạ tầng càng quan trọng, là một trong những yếu tố tạo năng lực cạnh tranh quốc gia, là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô đảm bảo sự tăng trưởng, phát triển bền vững của nền kinh tế. TS Nguyễn Minh Phong trong một cuộc trao đổi với phóng viên Báo Năng lượng Mới nhấn mạnh: Dù là giai đoạn trước hay sau hội nhập kinh tế quốc tế, đi lên xây dựng nền kinh tế thị trường thì vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước, trong đó có DNNN vẫn hết sức to lớn, là lực lượng tiên phong, nòng cốt và là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước.

Trong những năm qua, thực hiện mục tiêu “điện đi trước một bước” nhằm đáp ứng các nhu cầu gia tăng sản lượng điện hằng năm của nền kinh tế, cũng như tạo tiền đề phát triển kinh tế các vùng, miền trên cả nước, mỗi năm Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã đầu tư hàng trăm nghìn tỉ đồng vào phát triển hệ thống điện. Số vốn đầu tư lớn là vậy nhưng lợi nhuận mà EVN thu về hằng năm lại vô cùng khiêm tốn, có khi bằng 0. Và điều đáng nói ở đây, mặc dù khả năng tích lũy thấp, nhưng trên tinh thần chỉ đạo của Chính phủ, một loạt các dự án cấp điện cho các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo... với số vốn đầu tư lên tới hàng nghìn tỉ đồng vẫn được EVN triển khai, đảm bảo chất lượng và tiến độ. Hầu hết các dự án này sau khi hoàn thành đều có những đóng góp quan trọng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhiều địa phương. Có thể kể đến các dự án như cấp điện ra đảo Cô Tô (Quảng Ninh), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Phú Quốc (Kiên Giang)...

go nut that dinh vi co che quan ly dnnn
Giàn nén khí Trung tâm mỏ Bạch Hổ

Theo Phó tổng giám đốc Tổng Công ty Điện lực miền Bắc (EVNNPC) Hồ Mạnh Tuấn, nếu xét đến yếu tố lợi nhuận thì sẽ không có bất kỳ doanh nghiệp nào đầu tư vào những dự án này. Vốn lớn, tỷ suất đầu tư trên hộ gia đình cao, doanh thu thấp khiến thời gian thu hồi vốn của nhà đầu tư kéo dài. Đó chỉ là một trong rất nhiều “cái khó” của DNNN đã và đang phải đối diện. Tuy nhiên, khác với các thành phần kinh tế khác, DNNN vốn dĩ khi sinh ra đã mang trong mình những trọng trách nhất định với nền kinh tế, với xã hội, nên những dự án “chẳng có bất kỳ doanh nghiệp nào đầu tư vào” vẫn được triển khai.

Dưới một góc độ khác, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc EVNNPC Thiều Kim Quỳnh khi đề cập đến câu chuyện thu hút FDI tại các địa phương như Bắc Ninh, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc… đã khẳng định: Để có những dự án đầu tư, trong đó có các dự án FDI thành công rực rỡ như hiện nay ở Bắc Ninh, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Hải Dương… ngành điện và các địa phương đều phải đi trước một bước, bởi khi chuẩn bị vào làm ăn ở Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài tìm hiểu rất kỹ cơ chế chính sách, nguồn nhân lực, hạ tầng, trong đó có hạ tầng lưới điện và nguồn cung điện để thực hiện việc đầu tư.

Theo ông Quỳnh, mối quan hệ giữa ngành điện với các địa phương nói trên là hết sức mật thiết, bởi xuất phát từ vai trò, trách nhiệm của mỗi bên. Điều này thể hiện ở chỗ, trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội theo nhiệm kỳ của các tỉnh bao giờ cũng có “bóng dáng” của ngành điện và ngược lại - quy hoạch điện lực của địa phương bao giờ cũng phải gắn chặt với định hướng phát triển kinh tế của tỉnh đó, trong đó ngành điện xác định phải phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ thu hút, thực hiện các dự án đầu tư của các tỉnh, thành. Còn đối với một dự án cụ thể, một nhà đầu tư cụ thể, trước khi hoạt động thường hay có một cuộc gặp 3 bên giữa UBND các tỉnh - nhà đầu tư - EVNNPC.

“Chúng tôi cả 3 sẽ cùng ngồi lại để xem yêu cầu của địa phương là gì, nhu cầu của nhà đầu tư ra sao, còn ngành điện thì phải phúc đáp cho được những đề xuất đó, trên cơ sở nguồn lực hiện có và nỗ lực của ngành. Sau khâu này, dự án mới chính thức đi vào hoạt động” - ông Quỳnh nói.

Từ thực tế của ngành điện đã cho thấy, vị trí, vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường là không thể thay thế. Bởi sẽ chẳng có một doanh nghiệp nào khác, khu vực kinh tế nào khác có thể gạt bài toán lợi nhuận để đầu tư hàng trăm, hàng nghìn tỉ đồng phát triển, mở rộng hệ thống điện đến các xã vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo… Và cũng chắc chắn rằng, sẽ chẳng có doanh nghiệp nào chấp nhận bỏ vốn đầu tư sản xuất điện, mua điện… nhưng rồi lại không được bán điện theo giá thị trường, thực hiện sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước để hỗ trợ tăng trưởng. Giá điện của Việt Nam hiện đang quá thấp là một thực tế và việc phải được điều chỉnh tăng theo cơ chế giá thị trường cũng là điều bắt buộc, là điều hiển nhiên nhưng vì vấn đề lợi ích của nền kinh tế, của cộng đồng, nó đã buộc phải điều chỉnh theo lộ trình phù hợp.

Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác, nguồn lực của ngành năng lượng nói chung và ngành điện nói riêng cũng có hạn và không thể mãi gánh vác, chia sẻ gánh nặng với các ngành, lĩnh vực khác. EVN dù sao cũng là doanh nghiệp, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp cũng như các luật, quy định khác của Nhà nước và cũng phải thực hiện các chỉ tiêu sản xuất, kinh doanh như bất kỳ doanh nghiệp nào. Và một điều quan trọng, nền kinh tế càng phát triển, quy mô các ngành, các lĩnh vực khác của nền kinh tế không ngừng mở rộng đòi hỏi nhu cầu vốn đầu tư phát triển hạ tầng điện càng lớn. Ngành điện vì thế cũng cần vốn, cần nguồn lực như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác của nền kinh tế, thậm chí nhu cầu này còn lớn hơn gấp nhiều lần.

Vấn đề tạo nguồn lực cho ngành điện thông qua việc xây dựng cơ chế giá điện ở mức phù hợp vì thế là vấn đề cấp bách. Điện đúng là nguyên liệu đầu vào của hầu hết các lĩnh vực trong nền kinh tế và mọi sự biến động về giá điện sẽ kéo theo một loạt sự điều chỉnh giá của các mặt hàng khác nhưng như đã nói ở trên, muốn phát triển, mở rộng hệ thống điện thì phải có vốn, hoạt động sản xuất, kinh doanh điện vì thế cũng cần phải đảm bảo có tích lũy, có lợi nhuận để tái đầu tư.

Đề cập về vấn đề này, TS Nguyễn Minh Phong cho rằng, mấu chốt vấn đề của ngành điện hiện nay là giá và cơ chế quản lý. Theo đó, trong nền kinh tế thị trường, giá thành sản phẩm cần được xác định trên các khoản chi phí đầu vào, cộng với khoản lợi nhuận đảm bảo tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư và đây là nguyên tắc bắt buộc, kiên quyết để bất kỳ một ngành, một lĩnh vực nào cũng phải thực hiện nếu muốn tiếp tục đầu tư, phát triển. Và để tháo gỡ vấn đề này, chúng ta cần tách bạch giữa nhiệm vụ chính trị, công ích với nhiệm vụ kinh doanh. Nếu đã là kinh doanh thì phải kiên định theo giá thị trường. Tuy nhiên, để làm được điều này, ngành điện phải đảm bảo được tính công khai, minh bạch trong cách tính giá điện. Ngoài ra, các dự án đưa điện đến các xã vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo… cũng phải được xem là nhiệm vụ công ích, phi lợi nhuận, cần tách bạch với hoạt động kinh doanh vì lợi nhuận của Tập đoàn.

Ở đây cũng phải nói thêm rằng, chính vì giá điện chưa được điều chỉnh ở mức phù hợp nên giá các nguyên liệu để sản xuất điện như than, khí, dầu… cũng chưa đảm bảo để Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) gia tăng lợi nhuận, tích lũy đầu tư để mở rộng, phát triển sản xuất đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế. Và chắc rằng, nếu không tháo gỡ vấn đề đề này thì trong một tương lai không xa, khi các ngành, lĩnh vực này “sức cùng lực kiệt”, khả năng đảm bảo năng lượng cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, tác động tiêu cực đến sự phát triển an toàn, bền vững của nền kinh tế.

Trong tiến trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, ngành Dầu khí luôn được Đảng, Chính phủ xác định là ngành kinh tế giữ vai trò chủ lực, đầu tàu dẫn dắt nền kinh tế và cũng là công cụ điều tiết vĩ mô, là cấu phần quan trọng trong việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Và thực tế, với sự nỗ lực, quyết tâm của tập thể những người lao động Dầu khí, PVN đã không ngừng lớn mạnh, trở thành tập đoàn kinh tế lớn nhất nước và đang vươn tầm quốc tế. Hoạt động của PVN trên nhiều lĩnh vực, nhiều ngành đã giữ vị trí, vai trò định hướng, thu hút đầu tư vào các khu kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Tỷ lệ đóng góp của PVN vào ngân sách quốc gia cũng thường xuyên ở mức cao, có thời điểm lên tới 30% tổng thu ngân sách quốc gia.

Những năm gần đây, trong bối cảnh giá dầu thế giới giảm sâu, cùng cảnh ngộ như các tập đoàn, công ty dầu khí hàng đầu thế giới, hoạt động của ngành Dầu khí Việt Nam gặp khó khăn. Nhưng cái khác ở đây là, nếu các tập đoàn, công ty khác trên thế giới có thể đóng mỏ, giảm sản lượng khai thác… vì giá dầu giảm thì câu chuyện của PVN lại không hề đơn giản. Thu ngân sách từ dầu thô có thể giảm nhưng vẫn chiếm một tỷ trọng cao trong cơ cấu thu ngân sách hằng năm, vào khoảng 10%. Trong khi đó, hoạt động của PVN hiện vẫn đang là sự đảm bảo cho hoạt động của một chuỗi nhà máy, lĩnh vực sản xuất công nghiệp khác…

Hoạt động của ngành Dầu khí vì thế không chỉ là câu chuyện của riêng những người Dầu khí, đó là chuyện của cả nền kinh tế, của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. PVN với trách nhiệm của mình với đất nước, với nền kinh tế từ năm 2015 đã áp dụng một loạt các giải pháp nhằm ứng phó với diễn biến bất lợi của giá dầu. Nhưng rõ ràng, những giải pháp này chỉ có thể giải quyết được một phần nhỏ những khó khăn mà Tập đoàn đang phải đối diện. Bởi có một thực tế, nếu các tập đoàn, công ty dầu khí trên thế giới chỉ chịu tác động về việc giá dầu giảm thì trong bối cảnh hiện nay, PVN còn đang phải đối diện với áp lực rất lớn từ chính sách thuế, phí áp dụng đối với hoạt động dầu khí. Mà điển hình trong đó là chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng đối với hoạt động khai thác dầu khí.

Theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và Thông tư hướng dẫn Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp thì mức thuế áp dụng với hoạt động khai thác dầu khí sẽ 32-50%, gấp từ 1,6 đến 2 lần mức thuế của hàng triệu doanh nghiệp khác của nền kinh tế. Và điều đáng nói là mức thuế này được áp dụng ngay lập tức khi dầu vừa lên giếng, bất chấp việc giá bán trên thị trường khi đó có bù đắp được các khoản chi phí khác hay không. Một chuyên gia trong ngành Dầu khí đã đưa phép tính: Nếu giá khai thác 1 thùng dầu tại đầu giếng là 25,5USD, trong khi giá bán ra được xác định là 54USD/thùng thì sau khi cộng tất cả các thuế, giá 1 thùng dầu vẫn lên tới 54,7USD. Như vậy, doanh nghiệp sẽ lỗ 0,7USD/thùng.

Rõ ràng, với một phép tính như vậy thì không một doanh nghiệp nào có thể duy trì hoạt động và phát triển được. Có người sẽ đặt vấn đề, vậy những năm giá dầu cao, lợi nhuận ngành Dầu khí thu về lớn thì sao? Tích lũy ra sao? Đang nằm ở đâu? Hay đã dùng vào việc gì?... Ở đây xin nói rõ một điều, theo các quy định hiện hành thì hằng năm, căn cứ theo diễn biến giá dầu thế giới, Nhà nước sẽ giao nhiệm vụ nộp ngân sách cho ngành Dầu khí đối với hoạt động khai thác dầu khí và theo một đơn giá nhất định. Trong trường hợp giá dầu xuống thấp như năm 2015 chẳng hạn, giá dầu thô kế hoạch là 100USD/thùng nhưng tính chung cả năm chỉ khoảng 70USD/thùng, Quốc hội sẽ xem xét điều chỉnh dự toán thu từ dầu thô. Còn trong trường hợp giá dầu thô tăng, ngành Dầu khí làm ăn có lãi, ví dụ khoán thu từ dầu thô là 100 nghìn tỉ đồng nhưng hết năm PVN thu được 110 nghìn tỉ đồng, vượt 10 nghìn tỉ thì phần vượt doanh thu này cũng phải nộp vào ngân sách Nhà nước tới 75%.

go nut that dinh vi co che quan ly dnnn
Một góc kho chứa LPG lạnh Thị Vải

Thứ nữa, PVN là DNNN nên mọi khoản lợi nhuận, doanh thu nếu sử dụng đều phải báo cáo, xây dựng kế hoạch và được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì mới được thực hiện. Việc trích lập lợi nhuận, doanh thu vào các quỹ phục vụ công tác thăm dò khai thác, đầu tư hay dự phòng rủi ro… của PVN và các đơn vị thành viên cũng đều phải tuân thủ theo các quy định của Luật Dầu khí và các nghị định, thông tư của Chính phủ, Bộ Tài chính… Chúng ta đang hoạt động trong cơ chế thị trường, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng rõ ràng, với cơ chế quản lý hoạt động sản xuất - kinh doanh đối với PVN như vậy không hề được “mở cửa”.

Giá dầu thế giới giảm sâu đang tạo nên những tác động mạnh mẽ đến thị trường thế giới, nhưng là tác động có tính 2 mặt. Nó không chỉ mang đến khó khăn, thách thức mà còn mang cả đến cơ hội vươn lên, mở rộng thị trường, gia tăng trữ lượng nắm giữ dầu khí cho các tập đoàn, công ty dầu khí, trong đó có cả PVN. Nếu PVN có tiềm lực, có vốn tích lũy có thể mua lại những mỏ này với giá trị thấp hơn nhiều so với thời điểm trước. Chi phí trong việc đàm phán các hợp đồng khai thác, thăm dò dầu khí vì thế cũng giảm mạnh. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này, PVN rất cần sự thay đổi có tính đột phá trong tư duy quản lý Nhà nước đối với ngành Dầu khí.

Đây là vấn đề bất cập cần được các cơ quan chức năng, các bộ, ngành, Trung ương nhìn nhận và có những kiến nghị, đề xuất thay đổi cơ chế quản lý đối với hoạt động dầu khí sao cho phù hợp. Và vấn đề trước nhất chính là việc điều chỉnh thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cũng như cách tính thuế thu nhập doanh nghiệp sao cho phù hợp trong bối cảnh giá dầu xuống thấp như hiện nay. Việc này là cấp bách vì nó không chỉ đảm bảo cho PVN duy trì hoạt động khai thác dầu khí mà còn giúp tăng khả năng tích lũy vốn, mở rộng đầu tư, gia tăng trữ lượng dầu khí cho quốc gia.

Tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn mà ngành Dầu khí đang phải đối diện vì thế là sự đảm bảo cho mục tiêu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước cũng như đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia!

Thanh Ngọc

DMCA.com Protection Status