Hồi hộp chờ giải cứu nợ xấu

09:42 | 29/07/2012

1,015 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Nợ xấu trong hệ thống ngân hàng đang trở thành đề tài nóng của dư luận. Rất nhiều công thức, rất nhiều cách tính và cách... bảo vệ lý lẽ cho những con số, tuy nhiên thông tin nợ xấu chiếm 7,3% GDP (trên 202.000 tỉ đồng) do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước báo cáo trước Quốc hội cuối tháng 6 có vẻ vẫn là con số chính thức nhất.

Vì sao, nợ xấu?

Đa số các chuyên gia kinh tế đều cho rằng, kể từ khi lạm phát và suy giảm kinh tế trên thế giới năm 2007 ngày càng lan rộng, đến nay hầu hết các nền kinh tế toàn cầu đều lâm vào trình trạng suy giảm. Điều đó cũng ít nhiều tác động đến nền kinh tế nước ta. Có thể thấy rõ, năm 2011 và 6 tháng đầu năm đã có nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ hàng hóa, hoạt động cầm chừng, hoặc đóng cửa do sức mua của thị trường suy giảm... dẫn đến khả năng trả nợ cho ngân hàng gần như không có.

Về mặt chủ quan, sức đề kháng yếu ớt của doanh nghiệp Việt Nam (quản trị yếu, sức cạnh tranh của hàng hóa, khả năng đón đầu xu hướng không có...) khi tình hình kinh tế thay đổi đột biến chính là nguyên nhân rõ nét nhất. Tất cả dẫn đến tình trạng sản xuất bị ảnh hưởng, thị trường mới bị thu hẹp, thị trường cũ bị cạnh tranh và mẫu số chung là doanh nghiệp lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan. Một yếu tố khác là vài năm trở lại đây, mức tăng trưởng tín dụng khá cao, thậm chí có năm tăng trưởng tín dụng đạt tới xấp xỉ 30%, khiến dòng vốn được sử dụng khá dễ dãi, thậm chí hiệu quả còn bị đặt xuống hàng thứ yếu.

Nợ xấu của Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng và thực sự đang trở thành một thách thức lớn với nền kinh tế Việt Nam. Rất nhiều ngân hàng vừa phải siết chặt công tác quản lý nợ, thậm chí mạnh dạn cho các giám đốc chi nhánh hoạt động không hiệu quả tạm nghỉ việc, để hàng ngày cầm điện thoại đòi nợ. Trên thực tế từ năm 2011, bằng những cách riêng của mình các ngân hàng đã chào mời những món nợ khó đòi với mức giá dao động từ 60-70% giá trị ban đầu. Các chuyên gia cũng không quên cảnh báo, lâu nay các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) cũng chỉ biết lấy tăng trưởng tín dụng làm nguồn thu chính, ngoài ra các dịch vụ khác liên quan đến giao dịch gần như bị bỏ rơi.

Một giám đốc doanh nghiệp dệt may giấu tên thú nhận, trong vòng 2 năm qua, không phải lúc nào công ty cũng thua lỗ. Tuy nhiên, nếu có doanh thu và có lãi, họ cũng ém nhẹm và chấp nhận giơ đầu chịu phạt, miễn là ngân hàng cho… giãn tiến độ trả lãi suất. Vị lãnh đạo trên cũng khẳng định, hiện có rất nhiều đối tác làm ăn của ông vô tư rập khuôn công thức trên chỉ vì họ nghe đâu… Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ sớm có chỉ đạo để các NHTMCP giảm lãi suất cho các khoản vay trong quá khứ?! Điều đó vô tình khiến dòng tiền của hệ thống ngân hàng bị đọng lại phần nào, chí ít cũng là chi phí thường xuyên.

Khẩn trương tái cấu trúc hệ thống ngân hàng

Chuyên gia kinh tế cao cấp Lê Đăng Doanh tái khẳng định, ngân hàng là một thể chế tài chính rất quan trọng trong kinh tế thị trường, có chức năng huy động vốn và cấp vốn cho những dự án và doanh nghiệp có hiệu quả. Vì vậy, trong kinh tế thị trường, nếu có tính đến việc phá sản các ngân hàng các cơ quan chức năng cũng cần phải xem xét hết sức thận trọng, nếu không sẽ gây nên hiệu ứng domino tiêu cực. “Việc xử lý các ngân hàng yếu kém có thể được xử lý bằng cách sáp nhập hoặc mua lại với các ngân hàng mạnh hơn. Trên thực tế NHNN đã bắt đầu quá trình sáp nhập và mua lại này và sẽ tiếp tục quá trình này trong thời gian tới. Dĩ nhiên không có loại trừ sẽ có trường hợp nào đó phải đi đến phá sản. NHNN đã có nỗ lực lớn liên tục giảm lãi suất huy động nhưng chậm hạn chế lãi suất cho vay. Các NHTMCP từng huy động vốn trong quá khứ với những mức lãi suất cao khác nhau cho nên bản thân họ không thể ngay lập tức giảm lãi suất cho vay mà phải tính toán một mức lãi suất thích hợp để đủ trang trải lãi suất huy động đã cam kết”, chuyên gia Lê Đăng Doanh phát biểu trong một buổi tọa đàm về nợ xấu được tổ chức gần đây.

Như vậy, rõ ràng các doanh nghiệp đang gánh chịu các khoản tín dụng được vay trong quá khứ với lãi suất rất cao. Cũng vì NHNN kiến nghị giảm mức lãi suất cho vay của các khoản tín dụng cũ hơi muộn, nên các NHTMCP cũng chần chừ giảm lãi suất cho vay hơn là lãi suất huy động mà NHNN quy định. TS Nguyễn Thị Mùi, nguyên Phó giám đốc Học viện Tài chính phân tích, các NHTMCP cũng là doanh nghiệp, họ cũng phải kinh doanh có lãi, họ có tiêu chí lựa chọn để cho vay. Không ít ngân hàng hiện nay có thanh khoản dồi dào, có nhu cầu cho vay và họ đã cho một số doanh nghiệp lớn có thành tích tốt (tức là đã luôn trả nợ đúng hạn và làm tròn nghĩa vụ thuế với Nhà nước) vay. Một số doanh nghiệp khác có hàng tồn kho có nợ xấu, hiện nay gặp khó khăn trong tiêu thụ, gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn.

Như vậy, những doanh nghiệp nào có phương án giải quyết nợ tồn đọng, có phương án kinh doanh thuyết phục được ngân hàng thì mới mong tiếp cận được nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng. Không có hy vọng có mức lãi suất thấp đồng đều như nhau cho tất cả các doanh nghiệp. Cũng có ngân hàng lợi dụng tình hình khó khăn của doanh nghiệp để áp đặt những mức phí lách quy định của NHNN. Tuy vậy, những trường hợp này chắc chắn không nhiều, thậm chí có thể được xử lý hành chính theo kiểu đánh vào uy tín, trách nhiệm, để các doanh nghiệp có thêm cơ chội tìm kiếm những ngân hàng khác hoạt động đàng hoàng hơn.

Xung quanh thông tin thành lập công ty mua bán nợ quốc gia trực thuộc NHNN, TS Nguyễn Đức Thành, giảng viên Chương trình Fullbright tại Việt Nam cho rằng, cần phải xác định rõ mục tiêu hoạt động và nguồn lực cho tổ chức này. Về mục tiêu hoạt động, công ty mua bán nợ phải đặt mục tiêu là mua nợ xấu để bán lại, thu hồi vốn trong thời gian ngắn nhất thay vì mua lại rồi gia hạn nợ. Thứ hai, công ty này chỉ mua nợ xấu của các tổ chức chưa lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả, đồng thời sau khi mua nợ xấu thì các tổ chức tín dụng có thể trở lại hoạt động tài chính bình thường. Thêm nữa, nợ xấu phải được mua ở mức giá chiết khấu, tức là có giá thành giảm so với nguyên bản. Sau cùng, nguồn lực cho công ty mua bán nợ phải là nguồn vốn ngân sách thật thay vì dùng tiền phát hành. Trong buổi họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 6, Bộ trưởng Vũ Đức Đam đã thể hiện quyết tâm rất lớn của Chính phủ trong việc “dẹp loạn” nợ xấu. Tuy nhiên, trước mắt Chính phủ sẽ yêu cầu ngành ngân hàng làm rõ thực chất nợ xấu và xem xét xử lý bằng nguồn dự phòng rủi ro bắt buộc mà các ngân hàng luôn có, trước khi trông chờ công ty mua bán nợ.

Hữu Tùng

(Năng lượng Mới số 141, ra thứ Sáu ngày 27/7/2012)

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,650 ▼350K 83,650 ▼350K
AVPL/SJC HCM 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
AVPL/SJC ĐN 81,700 ▼300K 83,700 ▼300K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 ▲600K 76,100 ▲500K
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 ▲600K 76,000 ▲500K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,650 ▼350K 83,650 ▼350K
Cập nhật: 19/04/2024 20:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.000 ▼100K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 19/04/2024 20:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,465 ▲30K 7,670 ▲20K
Trang sức 99.9 7,455 ▲30K 7,660 ▲20K
NL 99.99 7,460 ▲30K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,440 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,530 ▲30K 7,700 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,530 ▲30K 7,700 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,530 ▲30K 7,700 ▲20K
Miếng SJC Thái Bình 8,190 ▼20K 8,370 ▼30K
Miếng SJC Nghệ An 8,190 ▼20K 8,370 ▼30K
Miếng SJC Hà Nội 8,190 ▼20K 8,370 ▼30K
Cập nhật: 19/04/2024 20:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,800 ▼300K 83,800 ▼300K
SJC 5c 81,800 ▼300K 83,820 ▼300K
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,800 ▼300K 83,830 ▼300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 ▲100K 76,700 ▲100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 ▲100K 76,800 ▲100K
Nữ Trang 99.99% 74,700 ▲100K 76,000 ▲100K
Nữ Trang 99% 73,248 ▲99K 75,248 ▲99K
Nữ Trang 68% 49,335 ▲68K 51,835 ▲68K
Nữ Trang 41.7% 29,345 ▲42K 31,845 ▲42K
Cập nhật: 19/04/2024 20:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 19/04/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,012 16,032 16,632
CAD 18,185 18,195 18,895
CHF 27,477 27,497 28,447
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,543 3,713
EUR #26,253 26,463 27,753
GBP 31,113 31,123 32,293
HKD 3,116 3,126 3,321
JPY 160.37 160.52 170.07
KRW 16.26 16.46 20.26
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,227 2,347
NZD 14,731 14,741 15,321
SEK - 2,252 2,387
SGD 18,123 18,133 18,933
THB 636.73 676.73 704.73
USD #25,150 25,150 25,473
Cập nhật: 19/04/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 19/04/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16131 16181 16583
CAD 18297 18347 18753
CHF 27805 27855 28267
CNY 0 3479 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26851 26901 27412
GBP 31459 31509 31976
HKD 0 3140 0
JPY 162.71 163.21 167.75
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14795 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18528 18528 18889
THB 0 649.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 19/04/2024 20:00