GS.TSKH Nguyễn Quang Thái: Kinh tế còn khó khăn một vài năm nữa

06:41 | 04/07/2013

1,484 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo GS.TSKH Nguyễn Quang Thái – Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, với tình hình kinh tế thế giới khó khăn, các vấn đề tái cấu trúc trong nước còn rất bộn bề và chưa nhìn thấy được khả năng đột biến trong khôi phục thì triển vọng cuối năm và vài năm tiếp theo, khó khăn vẫn còn đè nặng nền kinh tế.

PV: Thưa GS, trong 6 tháng đầu năm, GDP cả nước đạt 4,9%. Đây có phải là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế đang có dấu hiệu phục hồi?

GS.TSKH Nguyễn Quang Thái: Trong điều kiện khó khăn chung của kinh tế thế giới và trong nước, GDP tăng được 5% trong quý II và trong 6 tháng đầu năm được 4,9% cũng là điều đáng mừng, nhất là dịch vụ tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm 2012. Số doanh nghiệp đăng ký mới bắt đầu tăng so với cùng kỳ, ước tăng khoảng gần 8% trong 6 tháng đầu năm 2013. Xuất khẩu tiếp tục duy trì đà tăng trưởng, nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất kinh doanh tăng trở lại. Vốn FDI đăng ký và thực hiện đều tăng so với cùng kỳ năm trước; giải ngân vốn ODA đạt khá. Nhiều doanh nghiệp ngừng hoạt động đã quay trở lại hoạt động sản xuất, kinh doanh...

Tuy nhiên, rõ ràng sản xuất công nghiệp và nông nghiệp đều kém năm 2012, chứng tỏ sức cầu cả tiêu dùng và đầu tư rất yếu. Nợ xấu vẫn tăng. Hàng loạt doanh nghiệp bị phá sản hay sản xuất cầm chừng. Một số chỉ số kinh tế có vẻ khá lên, nhưng mặt khác thể hiện sự trì trệ của nền kinh tế như: chỉ số tồn kho, lạm phát đều thấp do cung cầu đang trong xu thế giảm. Nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, ẩn chứa nhiều rủi ro làm mất ổn định kinh tế vĩ mô.

GS.TSKH Nguyễn Quang Thái

Các khu vực sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản và khu vực công nghiệp, xây dựng đều còn rất nhiều khó khăn. Chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi trồng thủy sản giảm sút. Chỉ số phát triển công nghiệp IIP tăng dần nhưng còn rất chậm. Sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến và chế tạo gặp rất nhiều khó khăn do chi phí đầu vào cao, sức mua giảm, tiêu thụ chậm. Các doanh nghiệp FDI xuất khẩu khá, nhưng đóng góp cho thu ngân sách còn rất thấp, không tương xứng.

Một điều đáng lo ngại khác là tình trạng thâm hụt ngân sách càng lớn, tăng trưởng tín dụng thấp, tăng khoảng 4% so với chỉ tiêu cả năm là 12%. Trong khi vốn đầu tư công bị cắt giảm lớn thì nhiều công trình quy mô lớn lại đang triển khai, có thể làm cho mất cân đối thêm nghiêm trọng. Các đột phá trong lĩnh vực giáo dục còn rất mờ nhạt, cải cách thủ tục hành chính và bộ máy công quyền chưa có chuyển biến rõ nét…

Như vậy, những dấu hiệu tốt có nhưng chưa nhiều như mong muốn, khó khăn còn lớn. Nhìn triển vọng cuối năm và vài năm tiếp theo, khó khăn vẫn còn đè nặng nền kinh tế, mà các vấn đề tái cấu trúc còn rất bề bộn. Cùng với tình hình kinh tế thế giới rất khó khăn, khó có đột biến trong khôi phục thì kinh tế nước ta còn khó khăn một vài năm nữa.

PV: Một số ý kiến cho rằng, Nghị quyết 01 và Nghị quyết 02 của Chính phủ đưa ra để giải cứu thị trường vẫn chưa phát huy được tính hiệu quả: nợ xấu vẫn chưa giảm đáng kể; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ không cao; doanh nghiệp thành lập mới thấp hơn số doanh nghiệp ngưng hoạt động và phá sản; khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp vẫn còn yếu... GS đánh giá như thế nào về công tác triển khai các gói giải pháp hiện nay?

GS.TSKH Nguyễn Quang Thái: Đúng như trên đã nói, tình hình kinh tế còn rất khó khăn. Các giải pháp nêu trong Nghị quyết 01, 02 của Chính phủ nói chung rất đúng và toàn diện, nhưng triển khai còn chậm. Các ý kiến trả lời của các Bộ trưởng tại cuộc họp Quốc Hội vừa qua cho thấy quyết tâm cao của Chính Phủ và ngành để đẩy mạnh phát triển kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, cũng có thể thấy, một số giải pháp qua kiểm nghiệm thực tế cho thấy có nhiều điều cần xem xét điều chỉnh.

Ví dụ: gói 30.000 tỉ để hỗ trợ thị trường bất động sản, sau đó tập trung vào nhà ở người thu nhập thấp nhưng khi thị trường bất động sản đang tồn kho lớn thì nhiều khoản tiền của 30.000 tỉ lại dồn cho các dự án xây nhà mới, mà phải 2 năm nữa mới đáp ứng nhu cầu!

PV: Để kinh tế trong 6 tháng cuối năm khởi sắc hơn thì theo GS, Chính phủ và các Bộ, ngành cần làm gì để hỗ trợ cho thị trường và doanh nghiệp? 

GS.TSKH Nguyễn Quang Thái: Để kinh tế 6 tháng cuối năm khởi sắc hơn, vừa đảm bảo các ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, vừa giữ tốc độ tăng trưởng khá hơn, tạo việc làm nhiều hơn,… thì cần nhiều việc để hỗ trợ ngay cho thị trường và doanh nghiệp. Khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh cần được tháo gỡ cùng với việc tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn các nguồn vốn tín dụng, giữ ổn định kinh tế vĩ mô để tăng niềm tin của doanh nghiệp và người dân vào triển vọng đầu tư, kinh doanh.

Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Chỉ thị đẩy mạnh việc triển khai Đề án tái cơ cấu kinh tế với những lộ trình rất cụ thể đối với từng Bộ, ngành và từng lĩnh vực, trong đó có nhấn mạnh đến nội dung: Trong quý II/2013, các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Ban chỉ đạo tái cơ cấu của ngành, lĩnh vực và địa phương. Đây là việc rất quan trọng, cần đẩy mạnh theo lộ trình thống nhất. Thêm vào đó, tôi tán thành chủ trương của Chính phủ luôn xác định quyết tâm là kinh tế càng khó khăn thì càng phải quan tâm đến các chính sách an sinh xã hội.

Chính vì vậy, các chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội được triển khai tích cực không chỉ trong 6 tháng qua mà là trong nhiều năm nay, nhất là việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho gia đình chính sách, người có công, hộ nghèo, gia đình có hoàn cảnh khó khăn…

PV: Xin cảm ơn GS!

Mai Phương (Thực hiện) 

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,650 83,850 ▲200K
AVPL/SJC HCM 81,850 ▲150K 83,850 ▲150K
AVPL/SJC ĐN 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 76,100
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 76,000
AVPL/SJC Cần Thơ 81,650 83,850 ▲200K
Cập nhật: 20/04/2024 09:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 83.800
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 83.800
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 83.800
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 ▲100K 84.000 ▲200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 20/04/2024 09:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,475 ▲10K 7,690 ▲20K
Trang sức 99.9 7,465 ▲10K 7,680 ▲20K
NL 99.99 7,470 ▲10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,450 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,540 ▲10K 7,720 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,540 ▲10K 7,720 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,540 ▲10K 7,720 ▲20K
Miếng SJC Thái Bình 8,190 8,370
Miếng SJC Nghệ An 8,190 8,370
Miếng SJC Hà Nội 8,190 8,370
Cập nhật: 20/04/2024 09:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 ▲200K 84,000 ▲200K
SJC 5c 82,000 ▲200K 84,020 ▲200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 ▲200K 84,030 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 76,700
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 76,800
Nữ Trang 99.99% 74,700 76,000
Nữ Trang 99% 73,248 75,248
Nữ Trang 68% 49,335 51,835
Nữ Trang 41.7% 29,345 31,845
Cập nhật: 20/04/2024 09:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 20/04/2024 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,001 16,021 16,621
CAD 18,177 18,187 18,887
CHF 27,419 27,439 28,389
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,542 3,712
EUR #26,237 26,447 27,737
GBP 30,905 30,915 32,085
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.25 160.4 169.95
KRW 16.3 16.5 20.3
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,228 2,348
NZD 14,723 14,733 15,313
SEK - 2,253 2,388
SGD 18,116 18,126 18,926
THB 637.47 677.47 705.47
USD #25,150 25,150 25,473
Cập nhật: 20/04/2024 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 20/04/2024 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16131 16181 16583
CAD 18297 18347 18753
CHF 27805 27855 28267
CNY 0 3479 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26851 26901 27412
GBP 31459 31509 31976
HKD 0 3140 0
JPY 162.71 163.21 167.75
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14795 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18528 18528 18889
THB 0 649.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 20/04/2024 09:00