Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 2)

11:00 | 11/11/2022

5,755 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - “Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực” được coi là Thiên sử thi vĩ đại nhất thế kỷ XX của Daniel Yergin – Chủ tịch Hiệp hội nghiên cứu năng lượng Cambridge, giảng viên Đại học Harvard. Nội dung cuốn sách thuật lại chi tiết toàn cảnh lịch sử của ngành dầu mỏ, mô tả các cuộc đấu tranh giành tiền bạc và quyền lực xung quanh ngành công nghiệp dầu mỏ, làm rung chuyển kinh tế thế giới, làm thay đổi vận mệnh của nhiều quốc gia, dân tộc, gây ra nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu. Petrotimes lần lượt đăng tải nội dung tác phẩm nổi tiếng này để phục vụ bạn đọc.
dau mo tien bac va quyen luc ky 2

MỞ ĐẦU

Winston Churchill đột nhiên thay đổi quan điểm của mình. Trước mùa hè năm 1911, ngài Bộ trưởng Nội vụ trẻ trung Churchill vẫn còn là một trong những người đứng đầu phe "các nhà kinh tế học", bao gồm những thành viên của Nội các Anh phản đối việc tăng chi phí quân sự nhằm đưa nước Anh vượt lên trong cuộc chạy đua hải quân giữa Anh và Đức. Cuộc chạy đua này là tác nhân gây nhiều hiềm khích nhất, khiến thái độ thù địch giữa hai quốc gia ngày càng trở nên sâu sắc. Tuy nhiên, Churchill lúc đó lại khẳng định chắc chắn rằng khả năng xảy ra chiến tranh với Đức không phải là không tránh khỏi, và nước Đức không phải lúc nào cũng hiếu chiến. Ông nhấn mạnh nên đầu tư ngân sách vào các chương trình xã hội trong nước hơn là vào việc trang bị thêm tàu chiến mới.

Nhưng ngày 1 tháng 7 năm 1911, Hoàng đế Đức Wilhelm II bất ngờ hạ lệnh cho Báo đen, một tàu hải quân chạy bằng hơi nước của Đức, tiến vào vùng cảng Agadir nằm trên bờ Đại Tây Dương của Marốc. Mục đích của Wilhelm II là kiểm tra sức ảnh hưởng của Pháp ở châu Phi và tìm một căn cứ đóng quân cho Đức. Mặc dù Báo đen chỉ là một chiếc tàu được trang bị súng, và Agadir là một thành phố cảng không mấy quan trọng, song sự xuất hiện của con tàu này tại đây đã gây ra một cuộc khủng hoảng quốc tế nghiêm trọng.

Việc Đức từng bước củng cố quân đội của mình vốn đã làm nảy sinh nhiều mối quan ngại cho các nước láng giềng châu Âu; nhưng tới lúc này, với khát khao đi tìm "chỗ đứng dưới bầu trời" cho mình, dường như Đức đang trực tiếp thách thức vị trí của Pháp và Anh trên trường quốc tế. Nguy cơ chiến tranh đã bóp nghẹt bầu không khí châu Âu trong nhiều tuần. Tuy nhiên, đến cuối tháng 7, tình hình căng thẳng đã dịu bớt – theo lời của Churchill thì "kẻ bắt nạt đang xuống thang". Nhưng sự kiện trên đã làm thay đổi hoàn toàn cách nhìn của Churchill. Khác hẳn với đánh giá trước kia, giờ đây Churchill tin chắc rằng Đức đang tìm cách nắm bá quyền và sẽ sử dụng sức mạnh quân sự để giành được điều đó. Ông đi đến kết luận chiến tranh là bất khả kháng – vấn đề chỉ còn là thời gian. Churchill được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Hải quân ngay sau sự kiện Agadir. Ông tuyên bố sẽ làm tất cả để chuẩn bị về mặt quân sự cho nước Anh nhằm đối phó với ngày định mệnh đang đến, ngày mà chiến tranh tất yếu sẽ xảy ra.

Trách nhiệm của ông là phải bảo đảm cho Hải quân Hoàng gia Anh, biểu tượng đồng thời là đại diện cho sức mạnh đế quốc của Anh, sẵn sàng đối mặt với người Đức trên các vùng biển quốc tế. Một trong những vấn đề quan trọng và gây tranh cãi nhất mà Churchill phải đối mặt lúc đó dường như chỉ thiên về kỹ thuật, song trên thực tế nó lại có tác động sâu rộng trong thế kỷ XX: Hải quân Anh có nên chuyển từ nguồn năng lượng than truyền thống sang sử dụng dầu không?

Nhiều người cho rằng việc chuyển đổi như vậy là quá mạo hiểm, vì như thế có nghĩa là Hải quân sẽ mất đi chỗ dựa là nguồn than an toàn và ổn định của xứ Wales. Thay vào đó, họ sẽ phải trông chờ vào nguồn cung cấp dầu xa xôi và bất ổn của Ba Tư (tên cũ của Iran).

Churchill cho biết: Thật ra, việc chuyển hẳn nguồn năng lượng sử dụng trong hải quân sang dầu là "một hành động chuốc lấy vô số rắc rối". Nhưng những lợi ích chiến lược mà dầu mang lại – tốc độ nhanh hơn và sử dụng nguồn nhân lực hiệu quả hơn – đã trở nên quá rõ ràng khiến Churchill không thể chậm trễ. Ông quyết định nước Anh sẽ phải xây dựng "sức mạnh hải quân thống trị của mình dựa trên dầu mỏ" và lập tức bắt tay vào việc thực hiện mục tiêu trên với tất cả sức lực và lòng nhiệt tình mạnh mẽ. "Quyền lực chính là chiến lợi phẩm của cuộc phiêu lưu này" − Churchill khẳng định.

Với quan điểm đó, Churchill, trước thềm Chiến tranh thế giới thứ nhất, đã nắm được một chân lý cơ bản, không chỉ đúng trong cuộc chiến nảy lửa sắp tới mà còn đúng trong nhiều thập kỷ sau đó. Bởi vì trong suốt chặng đường của thế kỷ XX, dầu mỏ đồng nghĩa với quyền lực. Và hành trình kiếm tìm quyền lực đó cũng là chủ đề của cuốn sách này. Đầu những năm 1990 – gần 80 năm sau khi Churchill thực hiện quyết tâm chuyển sang sử dụng dầu mỏ, sau hai cuộc chiến tranh thế giới và một cuộc chiến tranh lạnh kéo dài, và trong một thời điểm được kỳ vọng là mở đầu cho một kỷ nguyên mới hòa bình hơn – một lần nữa dầu lại trở thành tâm điểm của mối mâu thuẫn toàn cầu.

Ngày 2/8/1990, Saddam Hussein, Tổng thống Iraq, đưa quân xâm lược Côoét. Mục đích của Saddam Hussein không chỉ là xâm chiếm một nhà nước có chủ quyền mà còn nhằm nắm giữ nguồn tài sản quý giá của nó. Chiến lợi phẩm thu về sẽ rất lớn. Nếu thành công, Iraq sẽ trở thành cường quốc dầu lửa lớn nhất thế giới và kiểm soát cả thế giới Arập và Vịnh Ba Tư, nơi tập trung phần lớn lượng dầu dự trữ của trái đất. Sức mạnh, tài sản mới và quyền kiểm soát dầu mỏ của Iraq sẽ khiến cả thế giới phải bợ đỡ những tham vọng của Saddam Hussein. Với nguồn tài nguyên của Côoét, Iraq sẽ có thể trở thành quốc gia có vũ khí hạt nhân đáng sợ và thậm chí còn có thể tiến dần tới vị trí một siêu cường. Kết quả sẽ là một sự thay đổi lớn trong cán cân quyền lực quốc tế. Nói ngắn gọn, một lần nữa, quyền lực chính là chiến lợi phẩm. Tuy nhiên, do những gì sẽ mất vào tay Iraq quá lớn, nên cuộc xâm lược Côoét không được thế giới chấp nhận như một việc đã rồi như Saddam Hussein từng hy vọng.

Không còn là thái độ bị động như khi Hitler tiến hành hoạt động quân sự hóa vùng Rhine phía tây nước Đức hay khi Mussolini tấn công Ethiopia. Thay vào đó, Liên hợp quốc đã ra lệnh cấm vận đối với Iraq, và nhiều quốc gia phương Tây và Arập đã tập hợp quân đội với quy mô lớn nhằm bảo vệ nước láng giềng Arập Xêút trước cuộc tấn công của Iraq cũng như chống lại những tham vọng của Saddam Hussein. Trong lịch sử thế giới chưa từng có tiền lệ nào cho sự hợp tác giữa Mỹ và Liên Xô và cũng chưa từng có tiền lệ nào cho việc triển khai quân nhanh chóng với quy mô lớn như vậy vào khu vực này. Vài năm trước đó, quan điểm cho rằng dầu mỏ không còn "quan trọng" gần như đã được coi là hợp thời.

Mùa xuân năm 1990, chỉ vài tháng trước cuộc xâm lược của Iraq, các quan chức cấp cao thuộc Bộ Chỉ huy Trung ương Mỹ, đầu não trong chiến dịch huy động quân đội của Mỹ sau này, vẫn còn được thuyết giáo đại ý rằng dầu mỏ đã mất đi tầm quan trọng chiến lược của nó. Thế nhưng, cuộc xâm lược Côoét đã phá tan quan điểm huyễn hoặc đó. Đầu năm 1991, khi các biện pháp hòa bình đều đã tỏ ra vô hiệu trước một Iraq ngoan cố, không chịu rút quân khỏi Côoét, một liên minh gồm 33 nước do Mỹ dẫn đầu đã tiêu diệt sức mạnh tấn công của Iraq sau năm tuần không chiến và 100 giờ lục chiến, đẩy Iraq ra khỏi lãnh thổ Côoét. Vào cuối thế kỷ XX, dầu mỏ vẫn là nhân tố quan trọng nhất trong việc quyết định an ninh, sự thịnh vượng và bản chất của nền văn minh. Mặc dù lịch sử hiện đại của dầu bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ XIX, nhưng chính thế kỷ XX mới là thế kỷ bị biến đổi hoàn toàn bởi sự xuất hiện của nó.

Có thể nói xung quanh câu chuyện về dầu có ba chủ đề lớn. Thứ nhất là sự trỗi dậy và phát triển của chủ nghĩa tư bản và nền thương mại hiện đại. Dầu mỏ là ngành kinh doanh lớn nhất và toàn diện nhất thế giới, là ngành công nghiệp vĩ đại nhất trong số các ngành công nghiệp vĩ đại từng xuất hiện trong mấy thập kỷ cuối thế kỷ XIX. Standard Oil, công ty kiểm soát toàn bộ ngành công nghiệp dầu mỏ của Mỹ cuối thế kỷ XIX, là một trong những công ty đa quốc gia đầu tiên và lớn nhất của thế giới. Ngành kinh doanh này, trong thế kỷ XX, đã mở rộng tới mọi đối tượng, từ các nhà khoan dầu mạo hiểm, các nhà thúc đẩy kinh doanh hoạt ngôn, các ông chủ doanh nghiệp độc đoán, tới các bộ máy doanh nghiệp quan liêu lớn và các công ty nhà nước. Sự bành trướng của nó là hiện thân cho sự phát triển của thương mại, thị trường, chiến lược kinh doanh, những thay đổi về công nghệ, và các nền kinh tế quốc gia và quốc tế của thế kỷ XX.

Lịch sử dầu mỏ đã chứng kiến sự ra đời của nhiều hợp đồng và nhiều quyết định quan trọng – do các cá nhân, công ty và các quốc gia thực hiện. Đôi khi, chúng ra đời dựa trên những suy tính kỹ càng, và đôi khi, chúng lại chỉ đơn giản là kết quả của một sự tình cờ. Không ngành kinh doanh nào có thể định nghĩa rõ ràng và chính xác ý nghĩa của rủi ro và phần thưởng cũng như tầm quan trọng của cơ hội và số phận như ngành dầu mỏ. Khi nghĩ về thế kỷ XXI, chúng ta thấy rõ một điều rằng quyền lực của một con chip máy tính ngang ngửa với quyền lực của một thùng dầu. Tuy nhiên, ngành công nghiệp dầu mỏ vẫn duy trì sức ảnh hưởng to lớn của nó.

Trong số 20 công ty hàng đầu trong danh sách Fortune 500 (danh sách 500 công ty có mức doanh thu lớn nhất của Mỹ) có đến bảy công ty dầu mỏ. Chừng nào con người còn chưa tìm được một nguồn năng lượng thay thế khác thì dầu vẫn còn tác động sâu rộng tới nền kinh tế toàn cầu; những thay đổi lớn về giá dầu có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế hay ngược lại, dẫn đến lạm phát và suy thoái kinh tế. Ngày nay, dầu mỏ là loại hàng hóa duy nhất mà thông tin về những sự kiện và tranh cãi xung quanh nó không chỉ được đăng tải thường xuyên trên các chuyên trang về kinh doanh mà còn trên trang nhất các báo. Và, cũng như trước đây, dầu mỏ vẫn là một nguồn sinh lợi lớn đối với các cá nhân, các công ty và các quốc gia. Theo lời một nhà tài phiệt thì, "Dầu gần như đồng nghĩa với tiền."

Chủ đề thứ hai là dầu liên quan mật thiết với các chiến lược quốc gia, tình hình chính trị toàn cầu và quyền lực. Tầm quan trọng của dầu, với tư cách là một nhân tố tạo nên sức mạnh quốc gia đã được khẳng định trên các mặt trận của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi những chiếc máy chạy bằng động cơ đốt trong soán ngôi các phương tiện di chuyển dùng ngựa và than.

Dầu là tâm điểm của các diễn biến cũng như kết quả của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai ở cả vùng Viễn Đông và châu Âu. Người Nhật tấn công Trân Châu Cảng với mục đích bảo vệ cánh quân bên sườn của mình khi họ đang tìm cách chiếm lĩnh nguồn dự trữ dầu ở khu vực các nước Đông Ấn. Một trong những mục tiêu chiến lược quan trọng nhất của Hitler khi xâm lược Liên bang Xô Viết là nắm giữ các mỏ dầu vùng Caucasus (Cápcadơ). Nhưng cuối cùng, Mỹ mới là nước thống trị về dầu mỏ, và khi kết thúc cuộc chiến, các thùng chứa nhiên liệu của Đức và Nhật đều rỗng không. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, cuộc chiến giành quyền kiểm soát dầu giữa các công ty đa quốc gia và các nước đang phát triển đóng vai trò quan trọng trong phong trào đòi quyền độc lập của các dân tộc thuộc địa và của chủ nghĩa dân tộc mới nổi.

Cuộc khủng hoảng Suez năm 1956 – sự kiện đánh dấu con đường cùng cho các đế quốc châu Âu già nua – chủ yếu xoay quanh vấn đề dầu mỏ. "Quyền lực của dầu" đã trở nên lớn mạnh hơn rất nhiều trong những năm 1970, đưa các quốc gia trước đây vốn chỉ đứng ngoài lề các diễn đàn chính trị quốc tế lên vị trí của các nước giàu có và có ảnh hưởng, đồng thời tạo nên một cuộc khủng hoảng lòng tin sâu sắc trong khối các nước công nghiệp vốn vẫn dựa vào dầu để phát triển kinh tế. Và dầu cũng chính là trung tâm của cuộc khủng hoảng đầu tiên thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh những năm 1990 – cuộc xâm lược Côoét của Iraq. Tuy vậy, đôi khi dầu lại là kho vàng trong tay kẻ ngốc.

Ước muốn mãnh liệt nhất của quốc vương Iran – sự giàu có nhờ dầu mỏ – đã trở thành hiện thực, nhưng cũng chính điều đó lại làm ông kiệt quệ. Dầu đã gây dựng nên nền kinh tế của Mexico, nhưng rồi lại khiến nó suy yếu dần. Liên bang Xô Viết − quốc gia xuất khẩu dầu mỏ lớn thứ hai thế giới – đã phung phí số doanh thu khổng lồ từ dầu trong những năm 1970 và 1980 cho một chiến dịch củng cố quân sự và một loạt các cuộc phiêu lưu quốc tế vô dụng, thậm chí nguy hại. Còn Mỹ, quốc gia từng giữ vị trí nhà sản xuất dầu lớn nhất và hiện vẫn là quốc gia tiêu thụ dầu nhiều nhất thế giới, phải nhập khẩu tới một nửa nguồn dầu cung ứng cho nhu cầu trong nước. Thực trạng này gây phương hại tới vị thế chiến lược tổng thể của Mỹ và làm gia tăng đáng kể gánh nặng thâm hụt mậu dịch – đây là một tình thế nguy hiểm đối với một cường quốc lớn.

Sau Chiến tranh Lạnh, một trật tự thế giới mới đang bắt đầu hình thành. Cạnh tranh kinh tế, những cuộc chiến giữa các quốc gia trong từng khu vực và những cuộc đấu tranh giữa các dân tộc, dưới sự trợ giúp và khuyến khích của việc phổ biến các loại vũ khí hiện đại, có thể sẽ thay thế hệ tư tưởng với vai trò là tâm điểm của mâu thuẫn quốc tế và quốc gia. Nhưng dù trật tự thế giới mới này có phát triển theo hình thái nào đi nữa, thì dầu vẫn sẽ là một nhân tố chiến lược đóng vai trò thiết yếu trong các chiến lược quốc gia cũng như trên chính trường quốc tế. Chủ đề thứ ba trong lịch sử dầu mỏ lý giải vì sao xã hội của chúng ta lại trở thành một "Xã hội hydrocarbon" và chúng ta, theo ngôn ngữ của các nhà nhân loại học, lại trở thành "Con người hydrocarbon". Trong mấy thập kỷ đầu phát triển, việc kinh doanh dầu đã mang đến cho thế giới đang trên đà công nghiệp hóa một sản phẩm mang tên "dầu lửa". Đây được coi là "ánh sáng mới", giúp đẩy lùi bóng tối và kéo dài ngày làm việc.

Cuối thế kỷ XIX, chủ yếu nhờ buôn bán dầu lửa mà John D. Rockefeller trở thành người giàu nhất nước Mỹ. Thời đó, xăng gần như chỉ là một sản phẩm phụ vô dụng. Khó khăn lắm mới tìm được một người mua xăng với giá cao nhất là 2 xu/gallon[1]; còn khi không bán được, buổi tối người ta lại lén lút đổ xăng xuống sông. Vào lúc sự xuất hiện của bóng đèn điện tưởng chừng như sắp đẩy nền công nghiệp dầu mỏ đi vào dĩ vãng thì một kỷ nguyên mới lại mở ra với sự phát triển của động cơ đốt trong dùng xăng. Ngành công nghiệp dầu mỏ đã có một thị trường mới. Và cùng với đó, một nền văn minh mới ra đời.

Trong thế kỷ XX, dầu, cùng với khí đốt tự nhiên, đã hạ bệ ngôi vị nguồn năng lượng của thế giới công nghiệp của ông vua than. Dầu cũng trở thành nền tảng của phong trào ngoại ô hóa rộng lớn thời kỳ hậu chiến, làm biến đổi cả phong cảnh đương thời và lối sống hiện đại của chúng ta. Ngày nay, chúng ta trở nên quá phụ thuộc vào dầu, và dầu cũng gắn bó quá mật thiết với sinh hoạt hàng ngày của chúng ta, đến nỗi hiếm khi chúng ta dừng lại để cảm nhận hết tầm quan trọng bao trùm của nó.

Chính dầu đã biến mọi việc thành có thể – nơi chúng ta ở, cách chúng ta sinh sống, phương thức chúng ta đi làm hàng ngày hay đi du lịch, và thậm chí là nơi chúng ta có những mối quan hệ lãng mạn với người khác giới. Dầu là mạch sống của các cộng đồng khu vực ngoại ô. Dầu mỏ và khí đốt tự nhiên là các thành phần không thể thiếu trong thuốc trừ sâu − loại thuốc đang chi phối nền nông nghiệp thế giới. Dầu đã khiến việc vận chuyển lương thực tới các thành phố lớn trên thế giới, nơi hoàn toàn không có khả năng tự cung tự cấp, trở nên dễ dàng. Dầu còn được dùng để sản xuất ra nhựa và các chất hóa học – cơ sở gây dựng nên nền văn minh đương đại, một nền văn minh có nguy cơ sụp đổ nếu các giếng dầu thế giới đột nhiên cạn kiệt.

Trong phần lớn thế kỷ này, việc con người ngày càng phụ thuộc vào dầu mỏ đã được gần như cả thế giới ngợi ca là một điều tốt lành, một biểu tượng cho sự tiến bộ của nhân loại. Nhưng thời kỳ hoàng kim đó của dầu mỏ không còn nữa. Cùng với sự phát triển của phong trào môi trường, các nguyên tắc cơ bản của xã hội công nghiệp đang đứng trước những thách thức to lớn; trong đó ngành công nghiệp dầu mỏ, trên mọi khía cạnh, bị săm soi, chỉ trích và phản đối nhiều nhất.

Cả thế giới đang tăng cường những nỗ lực hạn chế hoạt động đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch (bao gồm dầu, than và khí đốt tự nhiên) do những hậu quả mà việc làm này gây ra: ô nhiễm không khí, mưa axit, suy thoái tầng ozone và nguy cơ thay đổi khí hậu. Dầu mỏ, mặc dù là một thành tố quan trọng của thế giới như chúng ta đều biết, hiện đang bị buộc tội là tác nhân chính khiến tình trạng suy thoái môi trường ngày càng trầm trọng hơn.

Và ngành công nghiệp dầu mỏ, vốn vẫn tự hào về những tiến bộ công nghệ cũng như về những đóng góp của nó cho việc hình thành thế giới hiện đại, bỗng ngơ ngác nhận thấy mình đang ở hàng ghế bị đơn với tội danh là mối đe dọa của các thế hệ hiện tại và tương lai. Tuy nhiên, Con người hydrocarbon chưa hề có ý định sẽ từ bỏ chiếc ôtô, hay ngôi nhà ngoại ô của mình, hay những gì họ coi không chỉ là tiện nghi mà còn là thiết yếu đối với lối sống của họ. Các quốc gia đang phát triển cũng không đưa ra dấu hiệu nào chứng tỏ họ sẵn sàng hy sinh các lợi ích của một nền kinh tế phát triển nhờ dầu mỏ để đổi lại những lợi ích về môi trường.

Hơn nữa, trước khi đưa ra bất kỳ ý tưởng nào về việc giảm tải lượng tiêu thụ dầu của thế giới, người ta cũng phải tính đến mức gia tăng dân số chóng mặt trong tương lai. Vào những năm 1990, dân số thế giới được dự đoán sẽ tăng thêm 1 tỷ người – tức là so với đầu thập kỷ, cuối thập kỷ dân số sẽ tăng thêm 20% – trong đó, đa phần người dân trên thế giới sẽ vẫn tiếp tục đòi hỏi "quyền" được tiêu thụ dầu. Các chương trình nghị sự quốc tế về môi trường của thế giới công nghiệp sẽ được đem ra so sánh với quy mô phát triển dân số. Cùng lúc, trên diễn đàn quốc tế hiện đã nổi lên một trong những mâu thuẫn lớn và khó giải quyết của thập kỷ 1990 giữa một bên là sự ủng hộ việc tăng cường các hoạt động bảo vệ môi trường, mạnh mẽ và ngày càng cao, và một bên là quyết tâm phát triển kinh tế, các lợi ích của Xã hội hydrocarbon và những lo lắng về vấn đề an ninh năng lượng.

Trên đây là ba chủ đề mà cuốn sách này đề cập. Bối cảnh là sân khấu toàn cầu. Đây là một biên niên sử về những sự kiện vĩ đại đã và đang ảnh hưởng tới cuộc sống của tất cả chúng ta. Cuốn sách vừa nói về các thế lực kinh tế và công nghệ hùng mạnh và vô cảm, vừa nói về những chiến lược cũng như sự sắc sảo của các doanh nhân và chính khách.

Các nhân vật được cuốn sách nhắc tới là các nhà tài phiệt và doanh nhân của ngành công nghiệp dầu – trong đó đương nhiên phải kể đến ông vua dầu mỏ Rockefeller, ngoài ra còn có Henri Deterding, Calouste Gulbenkian, J. Paul Getty, Armand Hammer, T. Boone Pickens, và nhiều người khác. Đóng vai trò không kém phần quan trọng là những nhân vật như Churchill, Adolf Hitler, Joseph Stalin, Ibn Saud, Mohammed Mossadegh, Dwight Eisenhower, Anthony Eden, Henry Kissinger, George Bush và Saddam Hussein. Thế kỷ XX thật sự xứng đáng với danh hiệu "thế kỷ dầu".

Bên cạnh tất cả những mâu thuẫn và sự phức tạp của nó, vẫn luôn có một "sợi chỉ" xuyên suốt câu chuyện về dầu, một cảm giác nóng hổi hơi thở thời đại đối với cả những sự kiện đã xảy ra từ rất lâu, đồng thời, có cả những tiếng vọng mạnh mẽ của quá khứ trong các sự kiện mới xuất hiện. Bên cạnh đó, đây còn là một câu chuyện về những cá nhân riêng lẻ, các thế lực kinh tế hùng mạnh, sự thay đổi trong công nghệ, những cuộc đấu tranh chính trị, mối mâu thuẫn quốc tế và, thật ra, là về những thay đổi vĩ đại.

Tác giả cuốn sách hy vọng thông qua việc nghiên cứu các hệ quả của sự phụ thuộc của thế giới vào dầu trên bình diện kinh tế, xã hội, chính trị và chiến lược, cuốn sách sẽ góp phần làm sáng tỏ quá khứ, giúp chúng ta hiểu rõ hơn hiện tại và dự đoán tương lai.

dau mo tien bac va quyen luc ky 2

PHẦN I: NHỮNG NGƯỜI SÁNG LẬP

CHƯƠNG 1 SỰ KHỞI ĐẦU: NỖI ÁM ẢNH VỀ DẦU

Sự biến mất của số tiền 526,08 đô-la là cả một vấn đề. Vào những năm 1850, đồng lương của một giáo sư chẳng lấy gì làm sung túc. Vì vậy, để có thêm thu nhập, năm 1854, Benjamin Silliman Con, con trai một nhà hóa học vĩ đại người Mỹ, đồng thời cũng là một giáo sư hóa học danh tiếng tại Đại học Yale, đã tham gia của một dự án nghiên cứu của một nhóm các nhà xúc tiến kinh doanh và doanh nhân với tổng mức thù lao là 526,08 đô-la. Nhưng mặc dù đã hoàn thành công việc, ông vẫn không nhận được số tiền thù lao đã cam kết. Tức giận, Silliman muốn biết xem số tiền đó đã biến đi đâu. Sự giận dữ của ông nhằm vào những người đứng đầu nhóm này, George Bissell, một luật sư đến từ New York, và James Townsend, chủ tịch một ngân hàng ở New Haven. Tuy nhiên, Townsend luôn né tránh vì e ngại những người gửi tiền tại ngân hàng của ông sẽ không yên tâm khi biết ông đang tham gia một hoạt động kinh doanh đầy tính đầu cơ như thế. Bissell, Townsend và những thành viên khác trong nhóm kinh doanh này dồn hết tâm trí cho một điều vĩ đại, một tầm nhìn lớn về tương lai của thứ vật chất được biết đến với cái tên "dầu mỏ" nhằm phân biệt với các loại dầu thực vật và mỡ động vật. Họ biết rằng, dầu mỏ sủi bong bóng trên mặt các con suối hoặc thẩm thấu vào các giếng nước mặn ở khu vực xung quanh vùng Sông Dầu, một địa danh nằm giữa vùng đồi núi xa xôi ở phía tây bắc bang Pennsylvania.

Tại nơi vùng đất hoang vu này, người ta tìm được một số thùng dầu bằng những phương tiện hết sức thô sơ. Họ chỉ việc hớt loại vật chất tối màu và nặng mùi này trên mặt các con suối và nhánh sông hoặc vắt những miếng giẻ hoặc chăn nhúng trong nước có chứa dầu. Người ta sử dụng phần lớn lượng dầu nhỏ bé thu lượm được này để sản xuất thuốc. Nhóm các nhà đầu tư này cho rằng có thể khai thác dầu mỏ với khối lượng lớn hơn nhiều rồi chế biến thành một loại chất lỏng có thể dùng để thắp sáng. Họ chắc chắn loại dầu mới này sẽ có khả năng cạnh tranh mạnh với loại nến đang chiếm lĩnh thị trường vào những năm 1850. Tóm lại, họ tin tưởng rằng nếu khai thác được dầu với khối lượng đủ lớn, họ có thể tung ra thị trường một loại dầu thắp sáng chất lượng cao, giá thành thấp mà vào giữa thế kỷ XIX loài người đang rất cần. Họ bị thuyết phục bởi ý nghĩ rằng họ có thể chiếu sáng cho các thị trấn và nông trại tại Bắc Mỹ và châu Âu. Quan trọng hơn, họ có thể sử dụng dầu mỏ để bôi trơn các bộ phận chuyển động của máy móc trong buổi bình minh của kỷ nguyên cơ khí. Và cũng giống như tất cả những doanh nhân tin tưởng vào giấc mơ của riêng mình, họ còn tin tưởng rằng họ sẽ trở nên vô cùng giàu có nếu làm được tất cả những việc này. Không ít người nhạo báng họ. Tuy nhiên, nhờ kiên trì, những người này đã thành công trong việc đặt nền móng cho một kỷ nguyên hoàn toàn mới trong lịch sử nhân loại – kỷ nguyên dầu lửa.

Để "xoa dịu những phiền muộn của chúng ta" Dự án này bắt nguồn từ những ý định tình cờ và lòng quyết tâm của George Bissell, người đi đầu trong việc sáng lập ngành công nghiệp dầu lửa. Với khuôn mặt dài, nhọn và vầng trán rộng, Bissell toát ra vẻ đẹp trí tuệ đầy ấn tượng. Ông là một người sắc sảo và nhạy bén với các cơ hội kinh doanh vì đã có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Tự lập từ năm 12 tuổi, Bissell tự trang trải cho việc học tập tại trường Cao đẳng Dartmouth bằng cách đi dạy và viết báo. Sau khi tốt nghiệp, ông từng làm giảng viên tiếng Latinh và Hy Lạp, rồi chuyển tới Washington để làm báo. Cuối cùng, Bissell định cư ở New Orleans, nơi ông trở thành hiệu trưởng của một trường trung học rồi làm giám thị của các trường công. Trong thời gian rảnh, ông học thêm để lấy bằng luật sư và tự học thêm nhiều ngôn ngữ nữa và, cuối cùng, ông thành thạo cả tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha và có thể đọc, viết bằng tiếng Do Thái cổ, tiếng Phạn, tiếng Hy Lạp cổ và hiện đại, tiếng Latinh và tiếng Đức. Nhưng do sức khỏe kém Bissell buộc phải trở lại Washington. Trên đường trở về, khi đi qua Pennsylvania ông nhìn thấy một số hoạt động khai thác dầu thô sơ với các vợt hớt và giẻ thấm dầu. Không lâu sau, khi tới thăm mẹ ở Hanover, bang New Hampshire, Bissell tới trường cũ của ông, trường Dartmouth. Tại đây, ông quan sát thấy một chai chứa mẫu dầu mỏ giống như ở Pennsylvania cho một học sinh cũ của trường đang làm bác sĩ tại phía tây Pennsylvania mang đến. Bissell biết rằng loại dầu này đang được sử dụng như những loại thuốc dân gian và cả biệt dược để chữa nhiều loại bệnh từ đau đầu, đau răng, điếc… tới rối loạn tiêu hóa, nhiễm giun sán, thấp khớp và phù, cũng như làm liền các vết thương trên lưng ngựa và la. Loại dầu này được gọi là "dầu Seneca" theo tên người da đỏ địa phương đặt để bày tỏ lòng kính trọng với thủ lĩnh Red Jacket, nhân vật được cho là đã truyền lại những bí quyết chữa lành vết thương của loại dầu này cho người da trắng.

Một công ty cung cấp dầu Seneca đã quảng cáo "sức mạnh chữa bệnh kỳ diệu" của loại dầu này bằng một bài thơ như sau: Thứ dầu tuyệt hảo đến từ dòng suối bí mật của thiên nhiên, Đem đến cho con người sự khởi sắc trong sức khỏe và cuộc sống. Từ những đáy sâu và dòng chảy kỳ diệu của tự nhiên, để làm dịu những đớn đau và phiền muộn của chúng ta. Bissell biết chất lỏng sền sệt màu đen này có thể đốt cháy được. Nhìn thấy mẫu dầu mỏ ở Dartmouth, ông lóe lên một ý tưởng loại dầu này không chỉ có thể dùng làm thuốc chữa bệnh mà còn có thể dùng làm dầu thắp sáng. Ông có thể thoát khỏi nỗi lo lắng về tiền bạc và trở nên giàu có nhờ việc phát triển thứ nhiên liệu này. Trực giác đó trở thành kim chỉ nam và niềm tin của ông, những điều được thử thách rất nhiều trong cuộc sống đầy thất vọng của ông sáu năm sau đó.

Vị giáo sư biến mất. Nhưng liệu có thể dùng dầu mỏ làm nhiên liệu đốt? Bissell đã khuấy động mối quan tâm của các nhà đầu tư khác và cuối năm 1854, nhóm doanh nhân đã thuê giáo sư Silliman của Đại học Yale phân tích và đánh giá khả năng đốt cháy và bôi trơn của dầu. Nhưng điều chủ yếu họ muốn là có được sự tán đồng của vị giáo sư danh tiếng này dành cho dự án để bán được cổ phiếu và huy động vốn. Không ai có thể đáp ứng tốt mục đích này bằng Silliman. Với vóc người to lớn, tráng kiện và "khuôn mặt tử tế, vui vẻ", Silliman là một trong những tên tuổi vĩ đại và đáng kính nhất trong nền khoa học thế kỷ XIX. Ông là con trai của người sáng lập ngành hóa học Mỹ và bản thân ông cũng là một trong những nhà khoa học tiêu biểu nhất thời đó. Silliman cũng là tác giả của những cuốn sách giáo khoa vật lý và hóa học hàng đầu.

Yale là thủ đô khoa học của nước Mỹ giữa thế kỷ XIX và cha con nhà Silliman chính là tâm điểm của trung tâm này. Tuy nhiên, Silliman quan tâm đến thực tiễn nhiều hơn là lý thuyết và thực tiễn đã hút ông vào lĩnh vực kinh doanh. Hơn nữa, mặc dù có danh tiếng lớn và trình độ khoa học cao, ông luôn cần có thêm thu nhập. Lương làm khoa học rất thấp mà gia đình của ông lại đang phình ra. Do đó, ông thường nhận làm thêm các công việc tư vấn ở bên ngoài, cung cấp các đánh giá địa chất và hóa học cho nhiều đối tượng khách hàng. Mối quan tâm đến thực tiễn cũng thu hút ông tham gia trực tiếp vào những dự án kinh doanh mạo hiểm mà theo lời giải thích của ông, thành công của chúng sẽ đem đến cho ông "thật nhiều cơ hội… cho khoa học". Một người em rể của ông thì tỏ ra hoài nghi hơn khi nhận xét, Benjamin Silliman "đang trên đà tụt dốc liên tục, về mặt này hay mặt khác. Thật đáng thương thay cho khoa học". Khi nhận việc phân tích dầu mỏ, Silliman luôn tạo cho khách hàng niềm tin mình đang có được bản báo cáo mong đợi. Silliman tuyên bố: "Tôi dám cam đoan với các ngài rằng kết quả này sẽ đáp ứng được những mong đợi của các ngài về giá trị của thứ vật chất này". Ba tháng sau đó, khi gần kết thúc nghiên cứu, thậm chí ông còn có thái độ nhiệt tình hơn. Ông công bố đã có "thành công ngoài dự kiến trong việc sử dụng sản phẩm chưng cất của dầu mỏ làm chất đốt". Các nhà đầu tư trông đợi rất nhiều vào bản báo cáo cuối cùng.

Nhưng sau đó xảy ra một sự cố. Họ nợ Silliman số tiền 526,08 đô-la (tương đương khoảng 5.000 đô-la ngày nay) nên ông đã nhất quyết đòi họ phải chuyển trước 100 đô-la tiền mặt vào tài khoản của ông ở New York. Sự chậm trễ trong việc đặt cọc đã khiến vị giáo sư nổi giận. Xét cho cùng, ông không thực hiện dự án này chỉ vì lòng ham thích khám phá khoa học đơn thuần. Vì thế, ông tuyên bố sẽ giữ lại những kết quả nghiên cứu cho tới khi nào được thanh toán hết tiền. Trên thực tế, Silliman đã bí mật đưa bản báo cáo cho một người bạn cất giữ, còn ông đi xuống miền Nam, nơi người ta rất khó gặp được ông. Các nhà đầu tư cảm thấy thất vọng. Báo cáo cuối cùng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc thu hút thêm vốn. Cuối cùng, một trong những đối tác của Bissell đã chịu bỏ ra số tiền này với sự bảo đảm của chính Bissell. Bản báo cáo đề ngày 14 tháng 4 năm 1855 đã được giao cho các nhà đầu tư và nhanh chóng được chuyển tới nhà in. Mặc dù vẫn phát khiếp vì khoản thù lao phải trả cho Silliman, nhưng trên thực tế, các nhà đầu tư này vẫn thu được nhiều hơn số tiền họ bỏ ra.

Theo nhận định của một nhà sử học, nghiên cứu của Silliman chính là "một bước ngoặt trong sự hình thành ngành dầu lửa". Silliman đã xua tan những nghi ngờ về khả năng sử dụng dầu mỏ theo những phương thức mới. Ông chỉ ra cho các khách hàng của mình là có thể đun sôi dầu mỏ ở các nhiệt độ khác nhau và nhờ vậy có thể chưng cất dầu thành nhiều sản phẩm có thành phần chính là carbon và hydro. Một sản phẩm quan trọng trong số đó là loại dầu thắp sáng chất lượng rất cao. Silliman viết: "Thưa các ngài, tôi hoàn toàn có cơ sở để tin công ty của các ngài sở hữu một loại vật liệu thô mà từ đó, có thể chế tạo ra những sản phẩm rất có giá trị bằng các quy trình giản đơn và không hề tốn kém. Thưa các ngài, sau những nỗ lực nghiên cứu không mệt mỏi, tôi có thể bảo đảm rằng công ty của các ngài đang sở hữu một loại tài nguyên quý giá. Với các quy trình công nghệ đơn giản và kinh tế, nó có thể tạo ra các sản phẩm có giá trị cao". Do những vướng mắc về tài chính đã được giải quyết, Silliman lại sẵn sàng tham gia các dự án tiếp theo. Có bản báo cáo của Silliman trong tay, bản báo cáo giống như một lời quảng cáo có sức thuyết phục nhất dành cho vụ kinh doanh này, nhóm các nhà đầu tư trên không gặp trở ngại nào trong việc huy động các nguồn vốn cần thiết từ các nhà đầu tư khác. Bản thân Silliman cũng mua 200 cổ phiếu, khiến doanh nghiệp đã được biết tới với cái tên Công ty dầu mỏ Pennsylvania này càng kính nể ông hơn. Tuy nhiên, thời kỳ khó khăn còn kéo dài thêm một năm rưỡi nữa trước khi các nhà đầu tư sẵn sàng tham gia vào bước tiến mạo hiểm tiếp theo.

Nhờ nghiên cứu của Silliman, giờ đây, họ biết rằng có thể chiết xuất một chất lỏng dùng để đốt cháy từ dầu mỏ. Nhưng lượng dầu mỏ có sẵn liệu có đủ không? Một vài người cho rằng, dầu chỉ là những "giọt nhỏ" chảy ra từ các vỉa than ngầm. Một điều chắc chắn là không thể xây dựng hoạt động kinh doanh bằng cách vớt váng dầu trên mặt sông hoặc vắt dầu từ những mảnh giẻ rách thấm nước chứa dầu. Trước khi quyết định đầu tư lớn, vấn đề sống còn mà cả công ty này cùng hướng vào là phải chứng tỏ dầu mỏ tồn tại với khối lượng đủ để khai thác được. Giá cả và sự cải tiến Niềm hy vọng vào những đặc tính vẫn còn bí hiểm của dầu hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu thuần túy. Dân số tăng và sự phát triển kinh tế lan rộng nhờ cuộc cách mạng công nghiệp khiến nhu cầu ánh sáng nhân tạo ngày càng tăng. Trong suốt nhiều thế kỷ trước, người ta hầu như chỉ dùng những chiếc bấc đèn đơn giản nhúng vào mỡ động vật hay dầu thực vật. Còn với những người có tiền, mỡ cá nhà táng đã được coi là chuẩn mực của dầu thắp sáng chất lượng cao. Tuy nhiên, những đàn cá voi ở Đại Tây Dương dần biến mất và các con tàu săn cá ngày càng phải đi xa hơn, tới khu vực xung quanh mũi Hảo Vọng và cả những vùng biển xa xôi trên Thái Bình Dương. Đối với dân săn cá voi, đây là kỷ nguyên vàng vì giá cả đang tăng lên. Nhưng với người tiêu dùng thì ngược lại, họ không muốn phải trả tới 2,50 đô-la để mua một gallon mỡ cá, và hiển nhiên, đó chưa phải là mức giá cuối cùng. Những loại dầu thắp sáng giá rẻ đã được phát triển nhưng tất cả đều kém chất lượng. Loại phổ biến nhất là camphene, một chất dẫn xuất từ nhựa thông cháy sáng nhưng nhược điểm là rất dễ cháy và tệ hơn nữa là có thể gây nổ. Một loại khác là khí đốt chưng cất từ than được vận chuyển bằng đường ống tới các ngọn đèn đường và tới các gia đình trung lưu và thượng lưu ngày càng đông đảo tại các khu vực đô thị, song nó lại quá đắt đỏ. Nhu cầu về một loại dầu thắp sáng với giá thành tương đối rẻ, an toàn vẫn ngày càng cấp bách.

Bên cạnh đó, do tiến bộ trong ngành cơ khí đã cho ra đời nhiều loại máy móc, thiết bị và máy in vận hành bằng hơi nước nên nhu cầu về dầu bôi trơn thay thế cho mỡ động vật đang được sử dụng hồi đó cũng tăng lên đáng kể. Cuối thập niên 1840, đầu thập niên 1850, giới doanh nhân đã đưa ra nhiều sáng kiến đáp ứng các nhu cầu này với dầu thắp sáng và dầu bôi trơn chiết xuất từ than và các loại hydrocarbon khác. Một số nhân vật tại Anh và Bắc Mỹ đã xúc tiến cuộc tìm kiếm dầu mỏ, xác định và phân loại thị trường và từng bước hoàn thiện công nghệ lọc dầu, tạo nên những nền tảng cơ bản cho công nghiệp dầu lửa sau này phát triển công nghệ lọc dầu mà sau này. Thomas Cochrane, một đô đốc người Anh từng bị xử ở tòa án binh và được coi là hình mẫu cho nhân vật Don Juan của Byron, bị ám ảnh vì tiềm năng của nhựa đường và trong quá trình phát triển loại vật liệu này, ông đã trở thành chủ sở hữu một mỏ nhựa đường lớn ở Trinidad. Có thời gian, Cochrane hợp tác với một người Canada là Tiến sĩ Abraham Gesner. Khi còn trẻ, Gesner đã thử bắt đầu việc kinh doanh xuất khẩu ngựa sang Tây Ấn nhưng sau hai lần tàu chở ngựa bị đắm, ông từ bỏ công việc này và tới nghiên cứu y học tại Bệnh viện Guy’s London. Trở lại Canada, Gesner lại chuyển sang nghiên cứu địa chất ở New Brunswich. Ông đã phát triển quy trình chiết xuất dầu từ nhựa đường hoặc các chất tương tự và tinh chế dầu này thành dầu thắp sáng chất lượng cao. Ông gọi nhiên liệu này là "kerosene" – dầu lửa – ghép từ Keros và elaion, hai từ trong tiếng Hy Lạp cổ có nghĩa là "sáp ong" và "dầu". Ông đã thay đổi từ elaion thành ene để sản phẩm có tên gọi nghe tương tự như camphene. Năm 1854, Gesner nộp đơn xin cấp bằng sáng chế của Mỹ cho việc sản xuất "một chất lỏng hydrocarbon mới mà tôi đặt tên là dầu lửa và có thể dùng thắp sáng và cho các mục đích khác". Năm 1894, Gesner nộp đơn xin cấp bằng sáng chế "Phương thức mới sản xuất chất lỏng hydrocarbon (gọi tắt là dầu lửa) và sử dụng cho quá trình thắp sáng và các mục đích khác". Gesner tham gia thành lập một nhà máy sản xuất dầu lửa ở thành phố New York và, đến năm 1859, nhà máy này đã sản xuất được 5.000 gallon dầu mỗi ngày. Một nhà máy tương tự cũng được xây dựng ở Boston. Nhà hóa học người Scotland, James Young đi tiên phong trong việc xây dựng một nhà máy lọc dầu sử dụng nguyên liệu là than nén ở Anh. Một nhà máy sử dụng nguyên liệu đá phiến cũng được xây dựng ở Pháp. Đến năm 1859, ước tính có khoảng 34 công ty ở Mỹ sản xuất được dầu lửa và parafin với doanh thu 5 triệu đô-la giá trị sản phẩm. Khi đó, báo chí ca ngợi sự tăng trưởng trong lĩnh vực dầu mỏ là bằng chứng "về một thứ năng lượng tuyệt diệu mà với nó, nước Mỹ sẽ tham gia bất kỳ lĩnh vực nào của ngành công nghiệp hứa hẹn lợi nhuận cao".

Dầu lửa không xa lạ gì với loài người. Tại nhiều vùng ở Trung Đông, một chất dạng bùn nhão gọi là bitum thấm ra ngoài từ các vết nứt vỡ và đã được khai thác từ xa xưa. Ở Địa Trung Hải và Trung Đông, bitum được khai thác từ năm 3.000 trước Công nguyên. Nguồn dầu lửa nổi tiếng nhất là ở Hit, trên con sông Euphrates, cách Babylon không xa (ngày nay là thành phố Baghdad). Vào thế kỷ I trước Công nguyên, sử gia Hy Lạp Diodor đã viết về ngành khai thác bitum cổ đại: "Mặc dù có những điều thần kỳ xảy ra ở đất nước Babylon nhưng không gì có thể so sánh được với khối lượng nhựa đường khổng lồ được tìm thấy ở đây". Ở một số nơi, lượng bitum thấm ra ngoài cùng với hơi dầu liên tục bốc cháy đã khiến người dân Trung Đông tôn sùng lửa. Bitum là một mặt hàng được đem ra trao đổi ở Trung Đông thời cổ đại. Nó được dùng làm vữa trong xây dựng, gắn kết các bức tường của hai thành phố Jericho và Babylon. Theo phong tục thời bấy giờ, có thể cả con thuyền Noah và chiếc giỏ của Moses[2] đã được trét bằng bitum để chống thấm nước. Bitum cũng được sử dụng để làm đường và chiếu sáng. Tuy nhiên, nhìn chung, công dụng chiếu sáng của chất này rất hạn chế và không mấy hiệu quả. Ngoài ra, bitum cũng được dùng làm thuốc chữa bệnh. Về giá trị dược lý, những gì nhà tự nhiên học La Mã Pliny miêu tả vào thế kỷ I cũng tương tự như những gì đang diễn ra ở nước Mỹ vào những năm 1850. Pliny viết, bitum giúp chống chảy máu, làm liền các vết thương, điều trị bệnh đục thủy tinh thể, làm dầu xoa bóp cho bệnh nhân mắc bệnh gút, chữa đau răng, làm dịu những cơn ho kinh niên, làm giảm những cơn thở gấp, chữa tiêu chảy, nối lại những đoạn cơ bị cắt lìa, làm giảm đau khớp và hạ sốt. Chất này cũng "có công dụng làm thẳng những sợi lông mi quặm gây khó chịu cho mắt".

Dầu lửa còn có một công dụng nữa. Dầu cặn bị đốt cháy hóa ra lại đóng một vai trò lớn, đôi khi là quyết định, trong chiến tranh. Trong trường ca Iliad, Homer viết: "Quân Tơroa đốt một đống lửa cháy liên tục trên con tàu có tốc độ cao và từ con tàu phóng ra một ngọn lửa rất khó dập tắt". Khi vua Cyrus của Ba Tư chuẩn bị đánh chiếm Babylon, ông được cảnh báo về mối nguy hiểm của các cuộc chiến đấu trên đường phố. Ông đáp lại bằng cách tuyên bố: "Chúng tôi cũng có khối dầu hắc ín và dây thừng để làm cho lửa lan ra khắp nơi, buộc những ai đang ở trên các mái nhà phải nhanh chóng bỏ chạy nếu không muốn bị tiêu diệt". Kể từ thế kỷ VII, những người thuộc đế chế Byzantine đã sử dụng oleum incendiarum– thứ hỏa lực Hy Lạp. Đó là một hỗn hợp giữa dầu và vôi, khi tiếp xúc với độ ẩm sẽ bốc cháy. Công thức này là một bí mật quốc gia được bảo vệ chặt chẽ. Quân Byzantine chất hỗn hợp này lên các con tàu chiến, tẩm vào đầu các mũi tên và phết lên những quả lựu đạn thô sơ. Trong nhiều thế kỷ, hỗn hợp này được coi là một thứ vũ khí đáng sợ hơn cả thuốc súng. Như vậy, việc sử dụng dầu lửa ở Trung Đông có cả một lịch sử dài và đa dạng. Tuy nhiên, một điều rất khó hiểu là những kiến thức về lĩnh vực này không được phương Tây biết đến trong nhiều thế kỷ, có thể là vì những nguồn bitum lớn và các cách sử dụng chất này nằm bên ngoài biên giới Đế quốc La Mã và những kiến thức này không được truyền bá trực tiếp tới phương Tây. Tuy vậy, ở một vài nơi tại châu Âu như Bavaria, Sicily, thung lũng Po, Alsace, Hannover và Galicia, người ta đã theo dõi và bình luận về hiện tượng rò rỉ dầu ngay từ thời Trung Cổ. Và công nghệ lọc dầu đã được những người Arập đưa tới châu Âu.

Nhưng nhìn chung, dầu vẫn chỉ được sử dụng như một phương thuốc chữa bệnh đa tác dụng và điều này càng được những nghiên cứu chuyên sâu của các giáo sĩ và thầy thuốc củng cố thêm. Dầu cũng được khai thác với quy mô nhỏ ở Đông Âu, ban đầu là ở Galicia (địa danh từng là một phần của Ba Lan, Áo và Nga) rồi ở Rumani. Những người nông dân đã đào hầm mỏ bằng tay để lấy dầu thô, nhiên liệu dùng để lọc thành dầu lửa. Một dược sĩ từ Lvov, với sự giúp đỡ của một thợ ống nước, đã phát minh ra một loại đèn đốt dầu giá rẻ. Tới năm 1854, dầu là mặt hàng thương mại chính ở Viên và đến năm 1859, ngành dầu lửa đã phát triển mạnh mẽ ở Galicia với hơn 150 ngôi làng tham gia hoạt động khai thác dầu. Gộp chung lại, sản lượng dầu thô của châu Âu năm 1859 ước tính vào khoảng 36.000 thùng, chủ yếu được khai thác ở Galicia và Rumani. Điều mà ngành công nghiệp của Đông Âu này còn thiếu chính là công nghệ khoan.

Vào những năm 1850, việc phát triển dầu lửa tại Mỹ vấp phải hai rào cản lớn. Đó là chưa có một nguồn cung dầu đáng kể nào và chưa có loại đèn giá rẻ phù hợp để đốt loại dầu đó. Những loại đèn thời đó khi đốt tạo ra rất nhiều khói, và gây cay mũi. Sau đó, một đại lý bán dầu tại New York đã phát hiện ra một loại đèn có ống khói bằng thủy tinh để đốt dầu lửa đang được sản xuất tại Viên. Dựa trên thiết kế của người dược sĩ và người thợ đường ống ở Lvov, chiếc đèn đã khắc phục được các vấn đề khói và mùi. Đại lý dầu New York nhập khẩu loại đèn này và nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường. Do liên tục được cải tiến, loại đèn xuất xứ từ Viên này đã trở thành cơ sở cho hoạt động sản xuất, kinh doanh đèn dầu tại nước Mỹ và sau đó được xuất khẩu trên khắp thế giới. Như vậy, đến thời điểm Bissell khởi đầu dự án, dầu lửa loại dầu thắp sáng tốt và rẻ hơn đã được nhiều gia đình sử dụng. Những kỹ thuật cần thiết để lọc dầu thô thành dầu lửa đã được thương mại hóa với các loại parafin. Và một loại đèn giá rẻ cũng đã được phát triển để đốt dầu và đã đem lại những hiệu quả nhất định. Thật ra, những gì Bissell và các nhà đầu tư tại Công ty dầu mỏ Pennsylvania đang nỗ lực tìm kiếm là khám phá một nguồn nhiên liệu thô mới. Tựu chung, giá cả chính là vấn đề. Nếu họ có thể tìm thấy dầu mỏ đủ để đáp ứng nhu cầu, dầu sẽ được bán với giá rẻ và giành được thị phần của những sản phẩm dầu thắp sáng giá đắt hơn nhiều, hoặc không làm khách hàng hài lòng.

Việc đào lấy dầu không giải quyết được vấn đề. Nhưng có lẽ còn một giải pháp thay thế khác. Việc khoan tìm muối đã phát triển trước đó hơn 15 năm ở Trung Quốc, với các giếng muối khoan sâu tới 360 mét, chính là một gợi ý. Vào khoảng năm 1830, phương pháp cổ truyền của người Trung Quốc du nhập sang châu Âu và được người châu Âu học tập và rồi sau đó những kinh nghiệm này đã thúc đẩy việc khoan giếng muối ở Mỹ. Khi đang trăn trở với dự án của mình, vào một ngày nóng bức năm 1856 ở New York, George Bissell tránh nắng dưới mái hiên của một tiệm thuốc trên đại lộ Broadway và bất chợt nhìn thấy tờ quảng cáo một loại thuốc sản xuất từ dầu mỏ, trên đó có hình ảnh nhiều giàn khoan các mỏ muối. Loại dầu mỏ dùng để chế tạo loại biệt dược đó là phụ phẩm thu được trong quá trình khoan khai thác muối. Với sự tình cờ này, tiếp theo những hoạt động ông đã thấy ở tây Pennsylvania và trường Dartmouth trước đây, Bissell nảy ra ý tưởng áp dụng công nghệ khoan khai thác muối để khoan dầu. Bissell, rồi đến các nhà đầu tư khác trong Công ty dầu mỏ Pennsylvania, đều nhận thức sâu sắc là phải áp dụng kỹ thuật khoan muối vào việc khai thác dầu. Họ sẽ khoan thay vì đào để lấy dầu mỏ. Nhiều nhà đầu tư khác ở Mỹ và Ontario, Canada cũng đang thử nghiệm kỹ thuật trên. Tuy nhiên, Bissell và cộng sự đã sẵn sàng hiện thực hóa ý tưởng này. Họ đã có báo cáo của Silliman và nhờ nó đã huy động được vốn. Tuy nhiên, ý tưởng của họ không được đánh giá nghiêm túc. Khi ông chủ nhà băng James Townsend bàn về ý tưởng khoan dầu, nhiều người ở New Haven đã nhạo báng: "Ồ, Townsend! Dầu đi ra từ lòng đất, bơm dầu lên mặt đất như ông bơm nước ư? Thật vớ vẩn! Ông điên mất rồi!"

Mặc dù vậy, các nhà đầu tư vẫn quyết tâm tiến hành. Họ tin vào cơ hội và nhu cầu ngày càng tăng. Nhưng liệu họ có thể giao phó dự án điên rồ này cho ai? "Ngài Đại tá" Ứng cử viên của họ là Edwin L. Drake, một nhân vật tình cờ được lựa chọn. Là người biết mỗi thứ một chút nhưng không giỏi thứ gì, chắc chắn Drake không có phẩm chất nổi bật hay rõ ràng nào để đảm nhiệm công việc này. Ông từng làm nhân viên đường sắt nhưng nghỉ ốm vì sức khỏe kém và khi đó đang sống với con gái tại Tontine, một khách sạn cũ kỹ ở New Haven. Tình cờ, James Townsend, chủ ngân hàng New Haven cũng ở trong khách sạn đó. Đây là loại khách sạn mà đàn ông thích tụ tập trao đổi tin tức và chơi bài, những hoạt động rất hợp với Drake, người đàn ông 38 tuổi, thân mật, vui tính, hay nói và đang rỗi rãi. Vì thế, Drake có thể bỏ ra cả buổi tối để giải trí với đám bạn hữu bằng những câu chuyện muôn màu muôn vẻ của mình. Drake có trí tưởng tượng phong phú và những câu chuyện ông kể thường đầy kịch tính, được cường điệu hóa mà trong đó, chính ông là nhân vật trung tâm, nhân vật anh hùng. Drake và Townsend thường trò chuyện về dự án dầu mỏ này. Thậm chí, Townsend còn thuyết phục Drake mua cổ phần trong công ty. Sau đó, Townsend đã thuê Drake tham gia dự án.

Drake đang thất nghiệp và muốn có việc làm. Mặt khác, là một nhân viên đường sắt đang nghỉ ốm nên Drake có vé tháng đi tàu lửa miễn phí, yếu tố có lợi nhất đối với một dự án đầu tư mạo hiểm đang gặp khó khăn tài chính. Drake còn có một lợi thế khác: Ông là người rất bền chí. Phái Drake tới Pennsylvania, Townsend đã trao cho ông một thứ xem ra rất có giá trị. Lo ngại về tình hình ở vùng biên giới và sự cần thiết phải gây ấn tượng với "bọn rừng rú", ông chủ nhà băng này đã gửi đi nhiều bức thư đề tên "Đại tá" E. L. Drake. Như vậy, một "Đại tá" Drake đã được tạo ra. Mưu kế này đã có tác dụng. Tháng 12 năm 1857, sau chặng hành trình mệt mỏi vượt qua vùng bùn lầy rộng lớn trên chiếc xe ngựa chở thư chạy hai chuyến mỗi tuần, "Đại tá" E. L. Drake đã đặt chân tới làng Titusville.

Tại ngôi làng nhỏ, nghèo nàn với dân số 125 người, nằm lọt giữa những ngọn đồi ở phía Tây Bắc Pennsylvania, "Ngài Đại tá" đã được đón tiếp nồng hậu. Titusville là một làng nghề xẻ gỗ, nơi người dân đang ngập trong nợ nần với cửa hàng của công ty gỗ địa phương. Nhìn chung, người ta cho rằng, ngôi làng này sẽ chết khi cây cối trên những ngọn đồi xung quanh bị đốn trụi và thiên nhiên hoang dã sẽ lại phủ kín cả khu vực này. Công việc đầu tiên của Drake đơn thuần chỉ là hoàn thiện tư cách của ông đối với vùng khai thác dầu trong tương lai, hiện đang nằm trên khu vực một nông trang. Ông nhanh chóng hoàn tất công việc này và trở về New Haven để tính toán bước tiến đầy khó khăn tiếp theo là khoan để lấy dầu. Sau này, ông nói: "Tôi đã hình dung là có thể khai thác dầu với khối lượng lớn bằng cách khoan như khai thác muối. Tôi cũng tin mình sẽ làm được nhưng rất nhiều người không đồng ý với tôi, họ cho rằng dầu chỉ chảy ra thành những giọt nhỏ từ một vỉa than lớn". Tuy nhiên, Drake không hề thoái chí hay lệch hướng. Mùa xuân năm 1858, ông trở lại Titusville để bắt đầu công việc. Nhóm các nhà đầu tư đã lập một công ty mới là Công ty dầu Seneca với Drake làm trưởng đại lý. Drake đặt địa điểm khai thác cách Titusville khoảng hai dặm[3], trên một nông trại có dòng suối dầu chảy qua. Hàng ngày, người ta vẫn thu thập được từ ba đến sáu gallon dầu từ dòng suối này bằng các phương pháp truyền thống.

Nhiều tháng sau khi trở lại Titusville, Drake viết thư cho Townsend, nói: "Tôi sẽ không cố gắng đào để lấy dầu bằng tay nữa vì tôi tin chắc khoan là cách khai thác rẻ nhất". Tuy nhiên, ông đề nghị ông chủ ngân hàng Haven phải lập tức gửi thêm vốn. "Muốn làm bất cứ điều gì, chúng tôi phải có tiền. Làm ơn thông báo cho tôi biết ngay. Ở đây đang rất thiếu tiền". Sau một thời gian chậm trễ, Townsend cũng cố gửi cho Drake 1.000 đô-la. Với số tiền này, Drake thuê những "thợ khoan muối" mà ông cần để tiếp tục dự án. Do các thợ khoan muối có tiếng là thích rượu và thường trong tình trạng say xỉn nên Drake hết sức thận trọng với những người ông thuê. Drake ra điều kiện là những người thợ này hoàn thành công việc đến đâu thì được thanh toán đến đó với mức giá là 3 đô-la cho một mét sâu khoan được. Hai người thợ khoan đầu tiên Drake thuê đã chuồn mất. Thật ra, mặc dù không dám nói thẳng với Drake, nhưng họ nghĩ ông thật ngây thơ. Drake chỉ biết rằng ông chưa làm được gì trong năm đầu tiên tới Titusville và mùa đông giá lạnh đang tới gần. Vì thế, ông dồn sức lắp ráp chiếc động cơ hơi nước để cung cấp năng lượng cho mũi khoan hoạt động. Trong khi đó, các nhà đầu tư ở New Haven chờ đợi trong lo lắng. Cuối cùng, vào mùa xuân năm 1859, Drake đã tìm được thợ khoan. Đó là một thợ rèn có tên William A. Smith – "Bác Billy" Smith – đến cùng với hai con trai. Smith biết đôi chút về những gì cần làm vì ông từng rèn công cụ cho các công nhân khoan nước mặn.

Giờ đây, nhóm bắt đầu xây dựng giàn khoan và lắp đặt các thiết bị cần thiết. Họ cho rằng sẽ phải khoan sâu vào lòng đất hàng trăm mét. Tiến độ công việc rất chậm khiến các nhà đầu tư ở New Haven ngày càng cảm thấy không yên tâm. Tuy nhiên, Drake vẫn kiên quyết giữ nguyên kế hoạch. Rốt cục, Townsend là người duy nhất trong nhóm các nhà đầu tư còn tin tưởng vào dự án. Và khi dự án hết vốn, Townsend bắt đầu dùng tiền riêng để chi trả. Trong nỗi thất vọng, ông đã gửi cho Drake khoản tiền cuối cùng và yêu cầu Drake thanh toán các hóa đơn, đóng cửa dự án và trở về New Haven. Đó là vào cuối tháng 8 năm 1859. Vào buổi chiều thứ bảy ngày 27 tháng 8 năm 1859, khi Drake vẫn chưa nhận được thư của Townsend, trong khi khoan tới độ sâu tám mét, mũi khoan rơi vào một khe nứt và trượt tiếp 20 cm nữa. Công việc phải tạm dừng. Ngày hôm sau, khi ra ngoài để xem cái giếng, Billy nhìn chăm chú vào đường ống và thấy một lớp chất lỏng tối màu nổi lên trên mặt nước. Ông liền dùng ống thiếc để hút lấy mẫu của chất lỏng đó. Khi xem xét mẫu chất lỏng khá nặng thu được, ông vui sướng đến ngộp thở. Vào ngày thứ Hai, khi tới nơi, Drake thấy Bác Billy và mấy cậu con trai đang đứng trông nhiều xô, thùng, chậu giặt và tất cả đều chứa đầy dầu. Drake vớ lấy một chiếc bơm tay và bắt đầu làm công việc mà những người nhạo báng ông từng đem ra làm trò cười – bơm lấy dầu.

Cùng ngày hôm đó, ông nhận được thư chuyển tiền và lệnh đóng cửa giàn khoan do Townsend gửi. Nếu một tuần trước, có thể ông đã làm điều đó nhưng giờ thì không. Lòng kiên trì của Drake đã được đền đáp đúng lúc. Ông đã chạm tới dầu. Những người nông dân dọc theo vùng Sông dầu đổ xô tới Titusville và hô vang: "Tay Yankee đã tìm thấy dầu". Tin tức này lan đi nhanh chóng và người ta ồ ạt lao tới đây để khoan tìm dầu. Chẳng mấy chốc, dân số của làng Titusville bé nhỏ tăng lên gấp nhiều lần và giá đất cũng ngay lập tức tăng vọt. Tuy nhiên, thành công trong khoan lấy dầu không bảo đảm thành công về tài chính. Drake và Bác Billy sẽ làm gì với dòng dầu chảy ra? Họ giữ chặt mọi thùng đựng whiskey mà họ nẫng được trong vùng này và khi tất cả những thùng đó đã đựng đầy dầu, họ đóng thêm nhiều thùng và đổ dầu vào đó. Không may, một đêm, lửa từ một chiếc đèn đã làm hơi dầu bốc cháy, khiến cả khu vực chứa dầu nổ tung và biến thành một biển lửa khổng lồ. Trong lúc đó, những giếng khoan khác ở khu vực xung quanh ngày càng lấy được nhiều dầu hơn. Nguồn cung vượt xa nhu cầu và giá dầu sụt mạnh. Với việc áp dụng kỹ thuật khoan, dầu mỏ không còn thiếu. Thứ duy nhất thiếu lúc này là các thùng đựng whiskey và chẳng mấy chốc, những chiếc thùng này có giá đắt gấp đôi so với lượng dầu chứa bên trong.

"Ánh sáng của thời đại"! Không mất nhiều thời gian để dầu mỏ của Pennsylvania tìm đường đến thị trường với chất lượng của loại dầu lửa đã được lọc. Những phẩm chất của nhiên liệu này ngay lập tức được công nhận. Chưa đầy một năm sau khi Drake khoan được dầu, một tác giả Mỹ viết: "Là một nhiên liệu thắp sáng, không thể định giá dầu lửa. Đó là ánh sáng của thời đại. Những ai chưa từng nhìn thấy dầu cháy có thể tin chắc rằng ánh sáng của nó không phải là ánh sáng của mặt trăng, mà là một thứ ánh sáng gần hơn với ánh sáng trong trẻo, mạnh mẽ và lấp lánh của ban ngày, thứ ánh sáng mà thời Trung Cổ không thể có… Dầu mỏ tạo ra một thứ ánh sáng đẹp đẽ, thứ ánh sáng sáng nhất và cũng rẻ tiền nhất trên thế giới; một ánh sáng thích hợp cho các hoàng đế và hoàng gia, và không phải là không phù hợp với những người thuộc phe Dân chủ và Cộng hoà". George Bissell, người tiên phong trong hoạt động tìm kiếm dầu, nằm trong số những người đầu tiên đến Titusville. Không hề toan tính, ông bỏ ra hàng trăm ngàn đô-la để thuê và mua lại các trang trại xung quanh vùng Sông dầu. Trong thư gửi vợ, ông viết: "Bọn anh tìm thấy ở đây sự náo nhiệt không ở đâu có. Dân chúng ở đây gần như là điên rồ… Anh chưa bao giờ chứng kiến cảnh tượng nhộn nhịp nào như vậy. Toàn bộ vùng nông thôn phía Tây này đang xúm đen xúm đỏ tại đây và những mức giá được đưa ra cho đất đai ở khu vực phụ cận, nơi có khả năng tìm thấy dầu quả là hoang đường". Phải mất tới sáu năm Bissell mới đưa ra được nhận định này và những thăng trầm trong hành trình tìm kiếm dầu khiến ông có lý do để viết ra những dòng sau: "Anh khá ổn nhưng rất mệt. Bọn anh đã trải qua một thời kỳ quá khó khăn. Triển vọng của bọn anh chắc chắn sẽ rất sáng sủa… Bọn anh có thể sẽ trở nên vô cùng giàu có".

Quả thực, Bissell đã trở thành một người cực giàu. Một trong các khoản đóng góp từ thiện của ông là tài trợ tiền xây phòng tập thể thao cho trường Dartmouth, nơi ông đã nhìn thấy chai dầu đem lại cho ông ý tưởng kinh doanh mới. Ông nhất định yêu cầu phòng tập này phải có sáu đường chơi bowling "để nhớ về những rắc rối kỷ luật mà ông mắc phải khi còn chưa tốt nghiệp chỉ vì niềm đam mê dành cho môn thể thao này". Về sau, người ta nói "tên tuổi và danh tiếng của ông là một "từ cửa miệng" của những người làm trong ngành công nghiệp dầu lửa trên khắp lục địa này". Tuy nhiên, ông chủ nhà băng James Townsend, người đã chấp nhận rủi ro tài chính lớn nhất, lại không có được vinh dự mà ông cho là mình xứng đáng được nhận. Sau này, ông từng viết những lời cay đắng: "Toàn bộ kế hoạch là do tôi đề xuất, và những đề xuất của tôi đã được thực hiện. Việc huy động tiền và gửi tiền đi cũng do tôi làm. Tôi không phải là một kẻ ích kỷ nhưng sự thật là nếu tôi không làm những công việc đó thì dầu đã không thể được khai thác". Ông còn nói thêm: "Tôi sẽ không nhắc lại những lo lắng và chịu đựng mà tôi phải trải qua để cầu vận may".

Về phần Drake, mọi chuyện diễn ra với ông cũng không hề tốt đẹp. Ông trở thành một người mua dầu, sau đó là một đối tác trong một công ty ở Phố Wall chuyên về cổ phiếu dầu lửa. Ông là người tiêu xài hoang phí, và không phải là một doanh nhân giỏi mà là một con bạc. Tới năm 1866, Drake đã mất sạch tiền và trở thành một người nửa tàn phế, bị những cơn đau hành hạ và sống trong nghèo khổ. Trong bức thư gửi một người bạn, ông viết: "Nếu anh còn chút tình nhân ái đồng loại nào dành cho tôi và gia đình tôi, làm ơn hãy gửi cho tôi một ít tiền. Tôi đang ốm và rất cần tiền". Cuối cùng, vào năm 1873, bang Pennsylvania đã cấp cho Drake một khoản lương hưu nhỏ trọn đời vì những cống hiến của ông, giúp ông sống những năm cuối đời bớt khó khăn. Về cuối đời, Drake muốn khẳng định vị trí của mình trong lịch sử: "Tôi tuyên bố rằng tôi đã phát minh ra ống dẫn động và điều khiển nó. Nếu không có chiếc ống đó, họ không thể khoan xuống lòng đất trong khi đất chứa đầy những nước là nước. Tôi cũng khẳng định rằng tôi đã khoan giếng dầu đầu tiên tại nước Mỹ và có thể chỉ ra giếng dầu đó". Ông nhấn mạnh: "Nếu tôi không làm, tới ngày hôm nay việc đó sẽ không thể được thực hiện".

Đợt bùng nổ đầu tiên Thật ra, tất cả những yếu tố khác bao gồm công nghệ lọc dầu, kinh nghiệm về dầu lửa và loại đèn phù hợp dùng để đốt dầu đã tồn tại trước khi Drake chứng minh được sự sẵn có của nguồn cung thông qua kỹ thuật khoan, yếu tố cuối cùng phải có cho một ngành công nghiệp mới. Và với kỹ thuật này, loài người bỗng nhiên được trao khả năng đẩy lùi bóng tối. Tuy nhiên, đó cũng mới chỉ là sự khởi đầu. Nói vậy là vì, sau này, khám phá của Drake sẽ truyền động lực và sức mạnh cho loài người trên thế giới, đóng vai trò trung tâm trong sự thăng trầm của các quốc gia và đế chế, và trở thành yếu tố chủ đạo trong sự biến đổi của xã hội nhân loại. Và lẽ dĩ nhiên, những điều đó sẽ xảy tới. Điều diễn ra ngay sau đó giống như một cuộc đổ xô đi tìm vàng. Người ta nhanh chóng thuê những khu vực đất thấp trong thung lũng dòng sông Dầu nhỏ hẹp, và tới tháng 11 năm 1860, tức là 15 tháng sau khi Drake khoan được dầu, đã có khoảng 75 giếng dầu hoạt động. Cùng với chúng là vô số giếng khô nằm khắp nơi trên mặt đất. Năm 1860, như một tác giả đã nhận định, Titusville "giờ đây là nơi hội tụ của những kẻ lạ mặt hăm hở tới để mạo hiểm. Họ trao đổi giá cả bằng quyền khai thác dầu và cổ phiếu; mua và bán các mỏ dầu, thông báo về độ sâu và cơ hội hoặc lợi nhuận của các giếng, v.v… Những ai rời đi ngày hôm nay thường cho những người khác biết giếng dầu mà họ nhìn thấy sản xuất 50 thùng dầu tinh mỗi ngày… Câu chuyện này lại khiến ngày mai có nhiều người tới đây hơn. Chưa bao giờ có một bầy ong tụ tập náo nhiệt và ồn ào đến như vậy".

Xuôi xuống hạ lưu sông Dầu, nơi nó đổ vào sông Allegheny, một thành phố có tên Cornplanter, theo tên một thủ lĩnh da đỏ Seneca, đã được đổi tên thành Thành phố Dầu. Cùng với Tutisville, thành phố này trở thành trung tâm chính cho khu vực giờ đã được biết tới với cái tên Vùng đất dầu. Không mất nhiều tiền để xây những nhà máy lọc dầu biến dầu thô thành dầu lửa và, tới năm 1860, đã có ít nhất 15 nhà máy như vậy hoạt động ở Vùng đất dầu. Ở Pittsburgh còn có thêm năm nhà máy nữa.

Năm 1860, chủ một nhà máy lọc dầu đã tới thăm các mỏ dầu để tận mắt chứng kiến cuộc cạnh tranh. Ông nói: "Nếu công việc kinh doanh này thành công, ngành của tôi sẽ bị phá sản". Người đàn ông này đã đúng. Tới cuối năm 1860, các nhà máy lọc parafin không còn hoạt động và nhanh chóng tự chuyển đổi thành những nhà máy lọc dầu. Tuy nhiên, tới lúc đó, tất cả các giếng dầu đều có sản lượng khiêm tốn và người ta phải bơm lấy dầu.

Tháng 4 năm 1861, điều này đã thay đổi khi các thợ khoan tìm thấy giếng dầu đầu tiên phun thành dòng, đem lại một sản lượng đáng ngạc nhiên, lên tới 3.000 thùng mỗi ngày. Khi dầu từ giếng này phun trào lên cao, có thứ gì đó làm hơi dầu bốc ra bắt lửa. Một tiếng nổ cực lớn phát ra và một bức tường lửa khổng lồ xuất hiện, thiêu chết chín người và cháy suốt ba ngày sau.

Mặc dù bị lấn át bởi thông tin gây chấn động một tuần trước đó về việc phe các bang miền Nam đã khai hỏa vào pháo đài Sumter, những phát súng mở đầu cho cuộc Nội chiến Mỹ, vụ nổ trên đã công bố cho cả thế giới biết rằng ngành công nghiệp dầu lửa non trẻ sẽ đem lại nguồn cung dồi dào. Sản lượng dầu ở tây Pennsylvania tăng lên nhanh chóng, từ mức khoảng 450.000 thùng vào năm 1860 lên mức 3 triệu thùng vào năm 1862. Tốc độ phát triển của thị trường không thể bắt kịp mức tăng sản lượng này. Giá dầu, từ mức 10 đô-la/thùng vào tháng 1 năm 1861, đã sụt xuống còn 50 xu vào tháng 6.

Tới cuối năm 1861, giá dầu chỉ còn có 10 xu/thùng. Nhiều công ty khai thác dầu không thể tiếp tục tồn tại. Tuy nhiên, mức giá rẻ như vậy đã đem lại cho dầu lửa của Pennsylvania một chiến thắng nhanh chóng và quyết định trên thị trường. Chẳng mấy chốc, dầu đã thu hút được người tiêu dùng và đánh bại parafin cũng như các loại nhiên liệu thắp sáng khác. Tuy nhiên, nhu cầu cũng nhanh chóng đuổi kịp nguồn cung và, đến cuối năm 1862, giá dầu tăng tới 4 đô-la/thùng.

Tới tháng 9 năm 1863, giá dầu đạt mức 7,25 đô-la/thùng. Dù giá dầu có biến động ra sao, câu chuyện về những con người bỗng chốc giàu lên vẫn tiếp tục khiến từng đoàn người đổ về Vùng đất dầu. Trong chưa đầy hai năm, một giếng dầu đáng được ghi nhớ đã đem lại khoản lợi nhuận 15.000 đô‑la cho mỗi một đô-la tiền vốn đầu tư.

Cuộc Nội chiến Mỹ không thể cản trở sự bùng nổ dữ dội của các hoạt động khai thác ở Vùng đất dầu. Trái lại, thực tế này lại trở thành động lực lớn đối với sự phát triển của các hoạt động đó. Do chiến tranh, việc vận chuyển dầu nhựa thông từ phía Nam bị gián đoạn, dẫn đến tình trạng nhiên liệu camphene, loại chất đốt rẻ tiền làm từ dầu nhựa thông, thiếu trầm trọng. Dầu lửa lọc từ dầu thô của Pennsylvania ngay lập tức lấp đầy chỗ trống này và phát triển các thị trường ở miền Bắc với tốc độ nhanh chóng hơn bất kỳ một loại nhiên liệu nào khác.

Cuộc nội chiến thậm chí còn có tác động lớn hơn. Khi các bang miền Nam ly khai, khu vực miền Bắc không còn được thu lợi từ việc xuất khẩu bông, một trong những mặt hàng xuất khẩu chính của Mỹ. Sự tăng trưởng nhanh chóng của xuất khẩu dầu sang châu Âu đã giúp bù đắp mất mát đó và đem lại nguồn thu nhập quan trọng từ nước ngoài. Cùng với tình trạng hỗn độn và mất trật tự, cuộc nội chiến kết thúc đã giải phóng hàng ngàn, hàng ngàn cựu chiến binh. Họ đổ tới Vùng đất dầu để làm lại cuộc đời và tìm kiếm cơ hội làm giàu trong đợt bùng nổ mới của những rủi may do mức giá dầu hấp dẫn tăng cao tới 13,75 đô-la/thùng tạo ra. Có thể cảm nhận được những tác động của cơn sục sôi vì dầu này trên khắp khu vực Bờ Đông khi mà hàng trăm công ty dầu lửa mới được thành lập.

Tại khu vực trung tâm tài chính của New York, không có đủ văn phòng cho những công ty mới này thuê. Cổ phiếu của các công ty dầu lửa được mua nhanh đến nỗi, một công ty mới thành lập đã bán sạch số cổ phiếu phát hành chỉ trong vòng bốn giờ đồng hồ. Một chủ ngân hàng người Anh hết sức ngạc nhiên trước "hàng trăm ngàn người lao động khôn ngoan, những người thích lợi nhuận từ dầu lửa hơn là những khoản tiền lãi tiết kiệm nhỏ từ tiền gửi ngân hàng".

Cũng giống như New York, thủ đô Washington cũng không tránh được sự bùng nổ mạnh mẽ này. Nghị sĩ James Garfield, một nhà đầu tư lớn đầu tư vào các mỏ dầu và sau đó là Tổng thống Mỹ, đã thông báo với một doanh nhân cho thuê mỏ dầu việc ông đã thảo luận vấn đề dầu lửa với một số thành viên khác của Quốc hội, "những người cũng tham gia vào lĩnh vực kinh doanh dầu, vì ông cần phải biết rằng, cơn sốt dầu đã tấn công vào Quốc hội với mức độ không hề nhẹ nhàng chút nào". Cơn sốt đổ xô đi tìm dầu được thể hiện rõ nét nhất trong câu chuyện kỳ lạ về thị trấn Pithole nằm bên con sông cùng tên, cách Titusville khoảng 15 dặm.

Tại đó, vào tháng 1 năm 1865, giếng dầu đầu tiên được phát hiện và, tới tháng 6 năm đó, có tất cả bốn giếng phun với sản lượng 2.000 thùng mỗi ngày, chiếm 1/3 tổng sản lượng của Vùng đất dầu và mọi người phải đi lại rất khó khăn trên những con đường chật ních xe ngựa chất đầy những thùng chứa dầu. Một du khách tới đây đã nhận xét: "Toàn bộ nơi này bốc mùi giống như những binh đoàn mắc bệnh tiêu chảy". Giá đất thì dường như không có giới hạn nào.

Một trang trại gần như vô giá trị vài tháng trước đó được bán lại với giá 1,3 triệu đô-la vào tháng 7 năm 1865, rồi hai triệu đô-la vào tháng 9 năm đó. Cùng tháng này, sản lượng dầu thô ở khu vực xung quanh sông Pithole đạt mức 6.000 thùng mỗi ngày, tương đương 2/3 sản lượng của toàn bộ Vùng đất dầu. Và, cũng tính đến tháng 9 năm 1865, vùng đất trước đây hoang vu, không ai biết tới này đã trở thành một thị trấn với 15.000 người. Tờ New York Herald đăng bài viết tổng kết những lĩnh vực làm ăn chủ yếu ở Pithole là "rượu và cho thuê".

Tờ The Nation nhận định thêm: "Có thể khẳng định rằng, số kẻ say rượu tại thị trấn này nhiều hơn bất kỳ thị trấn nào khác có cùng diện tích trên thế giới". Tuy nhiên, Pithole đang dần được kính nể hơn với hai ngân hàng, hai trạm điện báo, một tòa báo, một nhà máy nước, một công ty cứu hoả, hàng chục tòa nhà và công ty lớn, hơn 15 khách sạn – trong đó có ít nhất ba khách sạn đạt tiêu chuẩn khách sạn sang trọng ở thành phố lớn – và một bưu điện chuyển phát hơn 5.000 bức thư mỗi ngày. Tuy nhiên, chỉ hai tháng sau, dầu của Pithole đột ngột cạn kiệt, cũng nhanh chóng như khi người ta phát hiện ra nó. Đối với người dân trong vùng, đó là một thảm họa, giống như thảm họa được nhắc tới trong Kinh Thánh.

Tháng 1 năm 1866, một năm sau lần đầu tiên người ta tìm thấy dầu tại đây, hàng ngàn người đã bỏ đi để tìm những niềm hy vọng và những cơ hội mới. Thị trấn vụt xuất hiện từ vùng đất hoang sơ ngày nào lại trở nên hoang vắng. Lửa thiêu rụi những tòa nhà, và những khung gỗ bị bỏ lại được dỡ xuống dùng vào việc xây dựng tại nơi khác hoặc làm củi đốt cho nông dân sống ở những ngọn đồi quanh đó. Một mảnh đất ở Pithole được bán với giá 2 triệu đô-la vào năm 1865 lại được rao bán với giá chỉ 4,37 đô-la vào năm 1878. Ngay cả khi thị trấn Pithole trở nên hoang tàn, cơn sốt tìm dầu vẫn bùng phát đâu đó và tấn công vào những vùng lân cận. Sản lượng dầu của Vùng đất dầu tăng vọt tới 3,6 triệu thùng vào năm 1866.

Cơn "Khát" dầu dường như không có giới hạn và dầu không chỉ là một chất đốt hay chất bôi trơn mà còn là một phần của văn hóa quần chúng. Dân Mỹ nhảy điệu ponka "Dầu Mỹ", điệu gallop "Cơn sốt dầu" và hát những bài hát như "Những công ty dầu nổi tiếng" hay "Nỗi ám ảnh về dầu". Có nhiều loại dầu nổi trên mặt nước, dầu gan cá, dầu thầu dầu, dầu thơm; Những loại dầu có thể làm người ốm khỏe lại và đi lại được. Nhưng dầu của chúng tôi là kết quả từ một cuộc trình diễn kỳ công: Chúng tôi chỉ lấy dầu ra từ giếng, Và khiến người ta phát điên với "Nỗi ám ảnh về dầu". Có anh láng giềng Smith, một thanh niên nghèo khó, chẳng có nổi một xu; Mặc quần áo vá chằng vá đụp và luôn xoáy đồ của người khác. Nhưng bây giờ, anh ta ăn mặc thật sang trọng, đeo kim cương, bao tay và cầm batoong; Và anh ta thành công nhờ "Nỗi ám ảnh về dầu". Bùng nổ và vỡ tung Ngay sau cuộc đua tìm dầu là cuộc đua sản xuất thứ nhiên liệu này nhanh nhất và nhiều nhất. Việc ồ ạt sản xuất để đạt "sản lượng dồi dào" luôn đe dọa các hồ chứa, khiến áp suất khí sớm bị mất đi và như vậy khả năng phục hồi thấp hơn.

Tuy nhiên, có nhiều lý do khiến hoạt động khai thác như vậy trở thành một thông lệ. Một là do sự thiếu hiểu biết về địa chất. Hai là những khoản lợi nhuận lớn nhanh chóng. Ba là do tính chất của các điều khoản hợp đồng cho thuê đất yêu cầu phải nộp lãi trong quá trình sản xuất ở mức nhanh nhất có thể. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất trong việc hình thành văn bản pháp quy về sản xuất dầu lửa của Mỹ và cấu trúc ban đầu của ngành công nghiệp này từ những ngày đầu tiên là "quy tắc nắm giữ", một đạo luật dựa trên thông luật của Anh. Nếu một con vật hoặc một con chim đang bị săn chạy hoặc bay từ một điền trang này sang một điền trang khác, người chủ của điền trang thứ hai hoàn toàn có quyền giết chết con vật hoặc con chim đó trên đất của ông ta.

Tương tự như vậy, những người chủ đất có quyền lấy ra bất kỳ thứ tài sản nào nằm dưới mặt đất, theo như một quan tòa người Anh đã ra phán quyết, không một ai có thể chắc chắn là điều gì đang thật sự chuyển động "trong những mạch ngầm dưới lòng đất".

Trong trường hợp sản xuất dầu, quy tắc nắm giữ có nghĩa là nhiều chủ sở hữu bề mặt đất cùng đứng trên một mỏ dầu chung được phép khai thác tất cả lượng dầu họ có thể khai thác, thậm chí cả khi họ làm cạn kiệt mỏ dầu đó nhiều hơn những người khác, hoặc làm giảm sản lượng và những giếng gần đó của các nhà sản xuất khác xung quanh. Do đó, chắc chắn chủ sở hữu của những giếng dầu gần nhau sẽ đua tranh quyết liệt để sản xuất nhiều dầu nhất, nhất để tránh tình trạng mỏ dầu bị kẻ khác làm cạn kiệt. Động lực thúc đẩy hoạt động khai thác dầu nhanh chóng góp phần tạo ra sự bất ổn định của sản lượng và giá cả. Quy tắc nắm giữ đã dẫn tới những tổn thất và hư hại đáng kể, ảnh hưởng tới sản lượng cuối cùng mà một mỏ dầu có thể mang lại.

Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận những ảnh hưởng của quy tắc này trên phương diện khác. Đó là, nó đã tạo ra cơ hội cho ngày càng nhiều người gia nhập ngành công nghiệp dầu lửa và đạt trình độ tinh thông hơn với những kỹ năng khai thác luôn được nâng cao. Và việc đẩy mạnh hoạt động sản xuất nhanh hơn, cũng tạo ra một thị trường rộng lớn hơn. Cơn sốt khai thác dầu đã tạo ra ở Vùng đất dầu một cảnh tượng hỗn độn đầy những công nhân chở dầu, những lều lán tạm bợ và những ngôi nhà gỗ dựng vội, những khách sạn với năm hay sáu chiếc đệm rơm nhồi nhét trong một phòng đơn, những giàn khoan và thùng chứa dầu, với những con người tràn đầy năng lượng vì hy vọng và những tin đồn, và mùi dầu cay xè. Ở chỗ nào cũng vậy, có một thứ không thể tránh được, đó là bùn lầy đọng quanh năm.

Vào thời đó, có hai tác giả đã nhận xét: "Bùn của sông Dầu đã nổi tiếng vào những năm trước và cả sau này. Những ai từng nhìn thấy và phải lội qua thứ bùn đó sẽ nhớ mãi. Lớp bùn dày và đáng tởm tới mức những khi trời ẩm, chúng bao phủ tất cả những con đường chính và phụ. Trong khi đó, những con phố của thị trấn là những điểm vận chuyển chính, trông giống như những chiếc hồ chứa chất lỏng hay những dòng bùn". Một số người chứng kiến cảnh tượng đổ xô khai thác dầu, nhìn vào "những kẻ lừa đảo" đến đây vì mục đích kiếm tiền nhanh và nhớ lại những ngọn đồi và ngôi làng yên tĩnh của Pennsylvania trước khi có cuộc bùng nổ này. Họ tự hỏi điều gì đã xảy ra và tại sao con người lại có thể thay đổi và bị hạ thấp giá trị tới mức như vậy vì nỗi ám ảnh về sự giàu có.

Năm 1865, một nhà báo địa phương đã viết: "Cơn sốt dầu và đất ở khu vực này đã trở thành một dạng bệnh dịch. Bệnh dịch này đeo bám mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi và mọi điều kiện sống. Con người không còn nói, nhìn hay hành động như sáu tháng trước đây. Đất đai, việc cho thuê, các hợp đồng, những lời từ chối, giấy tờ, thỏa thuận, lãi suất, và mọi thứ liên quan đến dầu mỏ là tất cả những gì họ có thể nói tới. Đâu đâu chúng ta cũng bắt gặp những khuôn mặt lạ và một nửa cư dân ở đây xuất hiện ở New York hay Philadelphia nhiều hơn ở nhà… Tòa án ngừng hoạt động; vành móng ngựa mất đi giá trị đạo đức; những mối quan hệ xã hội bị phá vỡ; nhà thờ bị bỏ quên; và tất cả những thói quen, những khái niệm và hiệp hội đã tồn tại trong nửa thế kỷ của chúng ta bị đảo lộn trong cuộc chiến giành giật sự giàu có. Một số người nghèo đã trở nên giàu có; một số người giàu đã giàu hơn và một số người giàu đã mất tất cả những gì họ đầu tư".

Tác giả này bày tỏ một suy nghĩ cuối cùng là: "Sớm muộn gì chiếc bong bóng lớn cũng vỡ tung". Chiếc bong bóng đó đã nổ. Đó là kết cục tất yếu của tình trạng đầu cơ và sản xuất dư thừa quá mức.

Năm 1866-1867, khủng hoảng thừa đã nhấn chìm ngành công nghiệp dầu lửa, giá dầu giảm xuống còn có 2,4 đô-la/thùng. Trong khi nhiều công ty đã dừng khoan tìm dầu, một số khác vẫn tiếp tục công việc và nhiều mỏ dầu mới đã được tìm thấy ở những khu vực ngoài vùng sông Dầu. Ngoài ra, ngành công nghiệp dầu lửa đã áp dụng những cải tiến và các biện pháp tổ chức tiên tiến hơn. Ngay từ khi những mỏ dầu đầu tiên được phát hiện, những chiếc xe ngựa chất đầy các thùng dầu đã làm tắc nghẽn những con đường ở Vùng đất dầu.

Không chỉ có thế, nắm thế độc quyền, những người đánh xe còn đưa ra giá cắt cổ, tới mức giá vận chuyển một thùng dầu trên quãng đường đầy bùn lầy dài vài dặm tới ga xe lửa còn cao hơn so với giá vận chuyển nó bằng xe lửa từ miền tây bang Pennsylvania tới New York. Thế độc quyền của những người đánh xe ngựa đã khiến người ta nỗ lực phát triển một phương thức vận chuyển khác để thay thế, đó là vận chuyển bằng đường ống.

Trong giai đoạn 1863-1865, bất chấp lời nhạo báng của dư luận, những đường ống làm bằng gỗ đã chứng tỏ chúng có thể vận chuyển dầu hiệu quả hơn và ít tốn kém hơn. Nhận thấy địa vị đang bị đe dọa, những người đánh xe ngựa phản ứng lại bằng những lời lẽ dọa nạt, những cuộc tấn công vũ trang và đốt phá. Nhưng đã quá muộn.

Đến năm 1866, các đường ống đã được nối tới hầu hết các giếng dầu ở Vùng đất dầu và được nối vào một hệ thống kết nối đường ống rộng lớn hơn dẫn tới đường ray. Các công ty lọc dầu cần phải mua được dầu và việc này cũng diễn ra trong tình trạng hỗn độn. Ban đầu, những người đi mua dầu ngồi trên lưng ngựa, đi từ giếng dầu này tới giếng dầu khác và thu mua theo kiểu được chăng hay chớ. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp dầu lửa, một hệ thống mua bán có trật tự hơn đã nổi lên. Những sàn giao dịch dầu mỏ không chính thức, nơi người mua và người bán có thể gặp gỡ và thỏa thuận giá cả, đã hình thành trong một khách sạn ở Titusville và tại khu vực gần đường ray xe lửa ở Thành phố Dầu.

Vào đầu những năm 1870, có nhiều sàn giao dịch dầu lửa chính thức hơn xuất hiện ở Titusville, Thành phố Dầu, một số nơi khác ở Vùng đất dầu và New York. Dầu được mua bán theo ba phương thức. Mua bán trao tay là phương thức trong đó việc giao hàng và thanh toán được tiến hành ngay lập tức. Mua thường xuyên là phương thức mà giao dịch được hoàn thành trong vòng 10 ngày. Còn mua kỳ hạn là phương thức trong đó một khối lượng hàng xác định sẽ được bán ở một mức giá xác định vào một thời gian đã định trước trong tương lai. Mức giá kỳ hạn là trọng tâm cho việc đầu cơ và dầu lửa trở thành "thứ hàng hóa đầu cơ được yêu thích của thời đại". Người mua ký hợp đồng để nhận dầu và trả mức giá theo hợp đồng hoặc trả hay nhận khoản chênh lệch giữa mức giá hợp đồng và mức giá "trung bình" ở thời điểm thực hiện hợp đồng. Do đó, người mua có thể thu được một khoản lợi nhuận hấp dẫn hoặc chịu một khoản lỗ lớn mà thậm chí không cần phải nắm giữ lượng dầu đó.

Cho đến khi Sở giao dịch dầu lửa Titusville được mở vào năm 1871, ngành dầu lửa đang trên đà trở thành một ngành công nghiệp rất lớn, một ngành công nghiệp sẽ làm thay đổi cuộc sống hàng ngày của hàng triệu con người. Nói chung, thập niên 1860 ghi nhận những bước tiến chóng mặt từ vụ thử nghiệm liều lĩnh của Drake. Đây thật sự là bằng chứng dài lâu về "một thứ năng lượng tuyệt diệu mà với nó, những tư duy xuất chúng của nước Mỹ sẽ tham gia bất kỳ một lĩnh vực nào của ngành công nghiệp hứa hẹn lợi nhuận cao này".

Trực giác của Bissell và phát hiện của Edwin Drake cũng như lòng kiên trì của họ đã mở ra một kỷ nguyên đầy biến động, một kỷ nguyên của tài năng và sự cách tân, của những thỏa thuận và những vụ lừa đảo, của những tài sản được tạo ra, bị mất đi và những vận may không bao giờ được tận dụng, của những công việc vô cùng nặng nhọc và nỗi thất bại cay đắng, và của sự tăng trưởng mạnh mẽ đến không ngờ.

Và người ta kỳ vọng điều gì cho tương lai của ngành công nghiệp dầu lửa? Có những người nhìn vào những gì xảy ra quá nhanh chóng ở miền tây bang Pennsylvania và nhận thấy ở phía trước những cơ hội còn lớn hơn nhiều. Họ hình dung ngành công nghiệp dầu lửa với một quy mô mà không mấy ai ở Vùng đất dầu có thể tưởng tượng ra. Tuy nhiên, cùng lúc đó, họ cũng nhận thấy những bất ổn và lộn xộn, những biến động và sự điên cuồng. Họ có những ý tưởng rất mạnh mẽ của riêng mình về ngành công nghiệp dầu lửa nên được tổ chức và phát triển ra sao, và họ đã tiến hành những kế hoạch riêng của mình.

(Còn tiếp)

Nam Hà (giới thiệu)

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 1)Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 1)