Chủ tịch Hòa Phát: Không ngại đối thủ lớn khi làm nông nghiệp

13:44 | 27/07/2016

237 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Trước nhiều ý kiến lo ngại về việc đầu tư vào nông nghiệp, chăn nuôi..., ông Trần Đình Long khẳng định không ngại cạnh tranh trong lĩnh vực này.

Tại buổi gặp mặt nhà đầu tư quý II của Tập đoàn Hòa Phát (Mã CK: HPG) vừa diễn ra, hoạt động đầu tư vào nông nghiệp - chăn nuôi của đơn vị này nhận được rất nhiều sự quan tâm khi vẫn còn không ít ý kiến nghi ngại về cơ hội của tập đoàn trong lĩnh vực vốn được đánh giá là nhiều rủi ro. Ông Trần Đình Long - Chủ tịch HĐQT cũng cho biết, đây không phải là lần đầu tiên nghe những ý kiến lo ngại về việc Hòa Phát dấn thân vào làm nông nghiệp.

"Bên cạnh sự rủi ro, nhiều nhà đầu tư còn cho rằng đây là lĩnh vực có khả năng thu hồi vốn lâu. Nhưng như tôi đã từng nói, trước đây, từ lĩnh vực sản xuất máy xây dựng, chúng ta tham gia vào làm thép, ai cũng gàn và nói chắc chắn Hòa Phát sẽ chết vì thép Trung Quốc tràn lan, giá rẻ và sự cạnh tranh trên thị trường rất khốc liệt. Tuy nhiên, đến nay chúng ta đã có câu trả lời cho họ. Với lĩnh vực nông nghiệp tôi cũng có một niềm tin như vậy", ông Long bày tỏ.

tin nhap 20160727134152
Ông Trần Đình Long - Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Hòa Phát. Ảnh: N.M

Lãnh đạo Hòa Phát cũng cho biết, hiện lĩnh vực nông nghiệp - chăn nuôi, tập đoàn cũng không thể kỳ vọng có lợi nhuận ngay trong năm 2016. Tuy nhiên, theo ông, lĩnh vực này đang đứng trước những cơ hội lớn từ thị trường khi nhu cầu đối với thực phẩm sạch, có nguồn gốc chưa bao giờ trở nên cấp thiết như hiện nay.

"Thực ra sự cạnh tranh là rất tốt, hơn nữa suy cho cùng chúng ta cũng không thể mong một mình một chợ được. Ở thị trường thức ăn chăn nuôi có hàng chục tên tuổi lớn như CP, Con Cò, Green Feed... Chúng ta vào rất tôn trọng họ nhưng cũng không có gì phải lo ngại. Nhiều người có khi theo đuổi một lĩnh vực mới thường chọn những thị trường ngách để tránh các đối thủ lớn. Nhưng quan điểm của tôi là không ngại cạnh tranh, chiến lược của Hòa Phát là phải trở thành xe tăng, xe lu nên cứ trực diện mà làm", ông Long cho hay.

Chủ tịch Hòa Phát cũng đánh giá, hiện các hoạt động trong lĩnh vực này của Hòa Phát đang diễn biến tốt. Tập đoàn hiện có 2 dự án nhà máy thức ăn chăn nuôi, trong đó nhà máy tại Hưng Yên đã hoàn thành và đưa vào chạy thử. Còn nhà máy tại Đồng Nai đang trong quá trình xây dựng. Bên cạnh đó, tập đoàn cũng đang chuẩn bị xây dựng những nhà máy tiếp theo tại Phú Thọ và Đồng bằng sông Cửu Long (hoặc mua lại).

Ông Long cũng cho biết sẽ tập trung vào mặt hàng được tiêu thụ nhiều là lợn, bò, gà. Hòa Phát đã nhập 2 đợt giống heo với tổng số 1.400 con nuôi ở Yên Bái và Bình Phước, đồng thời dự kiến sẽ cung cấp lợn thương phẩm ra thị trường vào năm 2018. Mục tiêu của Hòa Phát là trong 10 năm tới cung ra thị trường khoảng một triệu đầu lợn.

Tập đoàn này cũng dự định gây khoảng một triệu con gà, cung cấp trứng và thành phẩm ra thị trường. Như vậy, trong nhóm ngành chăn nuôi của Hòa Phát đã triển khai được 2 khâu là Farm và Feed. Dự kiến, sau khi phát triển tốt 2 khâu này, 10 năm nữa, HPG sẽ đầu tư vào mảng Food - tức chế biến.

Tại buổi gặp mặt, lãnh đạo Hòa Phát cũng công bố kết quả kinh doanh quý II, trong đó mức lợi nhuận tăng đột biến gấp đôi so với quý I. Cụ thể, doanh thu bán hàng đạt 8.144 tỷ đồng. Đặc biệt, lợi nhuận sau thuế đạt tới 2.030 tỷ đồng - mức cao nhất từ trước đến nay trong một quý của Hòa Phát.

Lũy kế 6 tháng đầu năm, HPG ước đạt doanh thu 15.400 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế 3.050 tỷ đồng. Con số doanh thu đạt khoảng 55% nhưng lãi sau thuế đã đạt tới 95% kế hoạch năm 2016. Doanh thu và lợi nhuận từ ngành thép chiếm tới 85% cơ cấu của toàn tập đoàn.

Lý giải về mức lợi nhuận đột biến trong quý II, ông Long cho biết do sản lượng bán hàng tăng, việc cơ quan quản lý áp thuế tự vệ thương mại tạm thời nên giá lên, chính sách nhập nguyên liệu theo năm cũng góp phần giúp Hòa Phát hưởng lợi về giá vốn...

Ông Long cũng cho biết, nếu không có diễn biến bất thường, năm 2016 lợi nhuận sau thuế của Hòa Phát có thể đạt khoảng 5.000 tỷ đồng. Trong khi đó, tại Đại hội cổ đông thường niên diễn ra đầu năm, kế hoạch lợi nhuận đề ra của tập đoàn này chỉ là 3.200 tỷ đồng.

Ngọc Tuyên

VNE

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,000 81,000
AVPL/SJC HCM 79,000 81,000
AVPL/SJC ĐN 79,000 81,000
Nguyên liệu 9999 - HN 68,850 69,450
Nguyên liệu 999 - HN 68,750 69,350
AVPL/SJC Cần Thơ 79,000 81,000
Cập nhật: 29/03/2024 00:47
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 68.500 69.800
TPHCM - SJC 79.100 81.100
Hà Nội - PNJ 68.500 69.800
Hà Nội - SJC 79.100 81.100
Đà Nẵng - PNJ 68.500 69.800
Đà Nẵng - SJC 79.100 81.100
Miền Tây - PNJ 68.500 69.800
Miền Tây - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 68.500 69.800
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 81.100
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 68.500
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 81.100
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 68.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 68.400 69.200
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 50.650 52.050
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.230 40.630
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.540 28.940
Cập nhật: 29/03/2024 00:47
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,835 6,990
Trang sức 99.9 6,825 6,980
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,900 7,020
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,900 7,020
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,900 7,020
NL 99.99 6,830
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,830
Miếng SJC Thái Bình 7,930 8,115
Miếng SJC Nghệ An 7,930 8,115
Miếng SJC Hà Nội 7,930 8,115
Cập nhật: 29/03/2024 00:47
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 81,000
SJC 5c 79,000 81,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 81,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 68,500 69,750
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 68,500 69,850
Nữ Trang 99.99% 68,400 69,250
Nữ Trang 99% 67,064 68,564
Nữ Trang 68% 45,245 47,245
Nữ Trang 41.7% 27,030 29,030
Cập nhật: 29/03/2024 00:47

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,660.26 15,818.45 16,326.56
CAD 17,743.11 17,922.33 18,498.03
CHF 26,676.40 26,945.86 27,811.41
CNY 3,357.08 3,390.99 3,500.45
DKK - 3,515.18 3,649.93
EUR 26,018.34 26,281.16 27,446.04
GBP 30,390.95 30,697.93 31,684.00
HKD 3,086.91 3,118.09 3,218.25
INR - 296.34 308.20
JPY 158.69 160.29 167.96
KRW 15.84 17.60 19.20
KWD - 80,359.61 83,575.55
MYR - 5,182.84 5,296.09
NOK - 2,236.99 2,332.06
RUB - 255.43 282.77
SAR - 6,588.96 6,852.65
SEK - 2,268.45 2,364.86
SGD 17,871.79 18,052.31 18,632.18
THB 599.73 666.36 691.91
USD 24,580.00 24,610.00 24,950.00
Cập nhật: 29/03/2024 00:47
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,853 15,873 16,473
CAD 18,010 18,020 18,720
CHF 27,004 27,024 27,974
CNY - 3,362 3,502
DKK - 3,501 3,671
EUR #25,924 26,134 27,424
GBP 30,761 30,771 31,941
HKD 3,040 3,050 3,245
JPY 159.69 159.84 169.39
KRW 16.18 16.38 20.18
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,206 2,326
NZD 14,575 14,585 15,165
SEK - 2,244 2,379
SGD 17,817 17,827 18,627
THB 627.99 667.99 695.99
USD #24,555 24,595 25,015
Cập nhật: 29/03/2024 00:47
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,610.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,298.00 26,404.00 27,570.00
GBP 30,644.00 30,829.00 31,779.00
HKD 3,107.00 3,119.00 3,221.00
CHF 26,852.00 26,960.00 27,797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15,877.00 15,941.00 16,428.00
SGD 18,049.00 18,121.00 18,658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,916.00 17,988.00 18,519.00
NZD 14,606.00 15,095.00
KRW 17.59 19.18
Cập nhật: 29/03/2024 00:47
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24593 24643 24983
AUD 15883 15933 16343
CAD 18015 18065 18469
CHF 27159 27209 27624
CNY 0 3394.2 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26474 26524 27027
GBP 31019 31069 31522
HKD 0 3115 0
JPY 161.65 162.15 166.68
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0264 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14574 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18196 18196 18548
THB 0 638.7 0
TWD 0 777 0
XAU 7930000 7930000 8070000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 29/03/2024 00:47